Bản án 49/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 49/2020/HS-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn B; tên gọi khác: Không.

Sinh năm: 1976, tại: Xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 2; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn T, sinh năm 1929 và con bà Lò Thị O, sinh năm 1930; bị cáo có vợ là Lò Thị T, sinh năm 1977 và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo đã bị xét xử và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/4/2020, tạm giam từ ngày 23/4/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Cà Văn B; sinh năm 1979.

Địa chỉ: Bản Nôm, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên.

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 20/4/2020, bị cáo Lò Văn B đi bộ từ nhà ở bản Nôm, xã C, huyện T đến bãi tha ma thuộc bản B, xã C nhằm mua ma túy sử dụng. Khi đến bãi tha ma, bị cáo gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ, qua trao đổi bị cáo mua được của người này 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 50.000đ (năm nươi nghìn đồng). Bị cáo cất gói Heroine vào trong túi quần đi về nhà. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, khi bị cáo đang ở nhà thì có Cà Văn B, sinh năm 1979 là người cùng bản với bị cáo đến nài nỉ mua 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) Heroine. Bị cáo đồng ý bán, lấy gói Heroine ra cấu 0,02 gam Heroine đưa vào mảnh giấy bạc màu vàng Cà Văn B đã chuẩn bị sẵn và nhận lấy 01 tờ tiền polime mệnh giá 20.000đ. Số Heroine còn lại có khối lượng 0,24 gam, bị cáo để trên mặt giường ngủ dưới gầm sàn nhà nhằm mục đích để sử dụng đến hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phối hợp với công an xã Chiềng Đông phát hiện, thu giữ và tạm giữ số tiền 240.000đ của bị cáo.

Tại bản Kết luận giám định số: 357/GĐ-PC09 ngày 29/4/2020 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “ Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Cà Văn B gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine; khối lượng vật chứng thu giữ của bị cáo Cà Văn B là 0,02 gam”. Kết luận giám định số: 358/GĐ- PC09 ngày 29/4/2020 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “ Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn B gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine; khối lượng vật chứng thu giữ của bị cáo Lò Văn B là 0,24 gam” Tại bản Cáo trạng số: 54/CT-VKSTG ngày 22 tháng 7 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Văn B về tội: Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 251, Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51, Điều 55 Bộ luật Hình sự;

xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 và Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự; tổng hợp hình phạt chung của hai tội từ 03 năm đến 03 năm 09 tháng tù.

 Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,13 gam Heroine đựng trong một túi nilon trắng gắn kín lại, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín trong trong có 01 chiếc bật lửa màu cam, 01 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng; đối với số tiền 240.000đ (hai trăm bốn mươi nghìn đồng) Công an đã tạm giữ khi bắt quả tang đối với bị cáo, quá trình điều tra cho thấy có 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) là tiền bị cáo đã bán Heroine cho Cà Văn B mà có, đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, số tiền còn lại 220.000đ do bị cáo đi làm thuê mà có không liên quan đến hành vi phạm tội đề nghị trả lại cho bị cáo.

Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 08 giờ, ngày 20/4/2020, bị cáo Lò Văn B mua 01 gói Heroine với số tiền là 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) của một người đàn ông không quen biết tại bãi tha ma thuộc bản B, xã C, huyện T mục đích để sử dụng. Nhưng sau khi mua được Heroine, đến 12 giờ cùng ngày bị cáo đã bán cho Cà Văn B 0,02 gam Heroine với giá 20.000đ (hai mươi nghìn đồng), số Heroine còn lại bị cáo cất giấu trên giường ngủ ở dưới gầm sàn nhà nhằm mục đích sử dụng, đến 16 giờ 30 phút cùng ngày bị Công an huyện Tuần Giáo phối hợp với Công an xã Chiềng Đông bắt người phạm tội quả tang thu giữ. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo Lò Văn B đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng Heroine là 0,02 gam; tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng Heroine là 0,24 gam. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Lò Văn B phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự và tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Về tính chất và mức độ của vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp, tiếp tay cho những người chuyên mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo và có bố đẻ được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo từ nhỏ sống phụ thuộc vào gia đình tại xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; được đi học đến lớp 2 sau đó nghỉ học ở nhà lao động sản xuất nông nghiệp. Bị cáo bị xét xử tại Bản án số: 22/2012/HSST ngày 21/3/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo tuyên phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 12/01/2013 chấp hành xong án phạt tù về địa phương sinh sống, đã được xóa án tích.

Ngày 28/10/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, ngày 28/10/2018 chấp hành xong về địa phương sinh sống đến nay được coi là chưa có tiền sự. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật và giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 251, Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Xét thấy nghề nghiệp của bị cáo là sản xuất nông nghiệp, gia đình thuộc hộ nghèo, sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt đối với bị cáo: Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần chấp nhận.

[6] Các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo vào ngày 20/4/2020. Quá trình điều tra xét thấy khi mua bán ma túy, bị cáo không biết tên, địa chỉ của người đàn ông đó. Cơ quan điều tra - Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Cà Văn B, khối lượng Heroine thu giữ của Cà Văn B là 0,02 gam, mục đích Cà Văn B tàng trữ để sử dụng và bản thân chưa có tiền án, tiền sự nên không đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, ngày 16/6/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo đã ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính là phạt tiền đối với Cà Văn B, là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,13 gam Heroine đựng trong một túi nilon trắng gắn kín lại, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 gói niêm phong màu trắng cac mép đều được dán kín trong trong có 01 chiếc bật lửa màu cam, 01 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng cần tịch thu và tiêu hủy; đối với số tiền 240.000đ (hai trăm bốn mươi nghìn đồng) Công an đã tạm giữ khi bắt quả tang đối với bị cáo, quá trình điều tra cho thấy có 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) là tiền bị cáo đã bán Heroine cho Cà Văn B mà có, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, số tiền còn lại 220.000đ do bị cáo đi làm thuê mà có không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về hành vi và các Quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[9] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn án phí; theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 251, Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố:

1. Về tội danh: Bị cáo Lò Văn B phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn B 02 (hai) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 01 năm (một) tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Tổng hợp hình phạt chung 02 tội buộc bị cáo phải chấp hành là 03 (ba) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/4/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điểm b, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, b, c Khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,13 gam Heroine đựng trong một túi nilon trắng gắn kín lại, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 gói niêm phong màu trắng cac mép đều được dán kín trong trong có 01 chiếc bật lửa màu cam, 01 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 20.000đ (hai mươi nghìn đồng); trả lại cho bị cáo số tiền 220.000đ (hai trăm hai mươi nghìn đồng) theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo được miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 12/8/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:49/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về