Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 49/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 155/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trương Đình H; sinh năm: 1972

Địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh H:

Bà Lê Thị Lý – Trợ giúp viên pháp lý.

Nơi công tác: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa – Chi nhánh số 08. Có mặt

- Bị đơn: Chị Quách Thị H; sinh năm: 1980.

Đa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 10/8/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, anh Trương Đình H trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Quách Thị H chung sống với nhau như vợ chồng và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi vào năm 1999. Đến ngày 11/4/2004 thì hai bên đi đăng ký kết tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng hoà thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, không thể tiếp tục sống chung cùng một mái nhà được nữa. Chị Hương đã rời khỏi nhà từ năm 2013 đến nay và vợ chồng ly thân từ đó, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc đã tan vỡ nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Trương Thị H, sinh ngày 25/8/1999 và Trương Đình H, sinh ngày 17/4/2001. Hiện nay, cháu các cháu đã thành niên, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 14/8/2020, chị Quách Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trương Đình H chung sống với nhau như vợ chồng và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi vào năm 1999. Đến ngày 11/4/2004 thì đăng ký kết tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng hoà thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, không thể tiếp tục sống chung cùng một nhà được nữa. Hai bên gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng vẫn không được. Chị và anh H đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Trương Thị H, sinh ngày 25/8/1999 và Trương Đình H, sinh ngày 17/4/2001. Hiện nay, các cháu đã thành niên, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của bà Lê Thị Lý:

Về hôn nhân: Xét thấy anh Trương Đình H và chị Quách Thị H mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa nên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử cho anh H và chị H được ly hôn.

Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để miễn tiền án phí cho anh Trương Đình H. Trả lại cho anh H tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

Về tố tụng:

[1]. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự nhưng chị Quách Thị Hương không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho chị H theo quy định tại khoản 3 Điều 210 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2]. Chị H đã được thông báo hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.

[3]. Tại phiên tòa hôm nay, chị H vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị H.

[4]. Về việc sai lệch tên của chị Quách Thị H (Quách Thị H’) trong giấy chứng nhận kết hôn so với thẻ căn cước công dân cũng sổ hộ khẩu. Nguyên nhân là do sai sót trong quá trình đăng ký kết hôn nên đã ghi nhầm. Việc này đã được UBND xã Thành M xác nhận.

[5]. Về hôn nhân: Anh Trương Đình H và chị Quách Thị H chung sống với nhau như vợ chồng và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi vào năm 1999. Đến ngày 11/4/2004 thì đăng ký kết tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Việc đăng ký kết hôn giữa anh H và chị H là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, không thể tiếp tục sống chung được nữa. Anh H và chị H đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Việc này, cả anh H và chị H đều thừa nhận và cũng đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận. Hiện tại cả anh H và chị H đều yêu cầu được ly hôn, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh H và chị H được ly hôn.

[6]. Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Trương Thị H, sinh ngày 25/8/1999 và Trương Đình H, sinh ngày 17/4/2001. Hiện nay, cháu các cháu đã thành niên, anh H và chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7]. Về tài sản: Anh H và chị H không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

[8]. Về án phí: Anh H là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn (theo Quyết định số 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017), anh H có đơn xin miễn tiền án phí, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh H cũng đề nghị miễn tiền án phí cho anh H, nghĩ nên chấp nhận đề nghị này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Trương Đình H và chị Quách Thị H được ly hôn.

2. Về án phí: Miễn nộp tiền án phí DSST cho anh Trương Đình H. Trả lại cho anh Trương Đình H 300.000đ (Ba trăm nghì đồng) tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên lai số: AA/2018/0002846 ngày 11/8/2020.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt anh H, vắng mặt chị H. Anh H có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị H có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn

Số hiệu:49/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về