Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 49/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 367/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2020/QĐXX-HNGĐ ngày  29/7/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06/8/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thu T  - sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn V, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn D - sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn V, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lê Thị Thu T trình bày:

Bà và ông Nguyễn D chung sống với nhau từ năm 2005, đến năm 2008 tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 22, quyển số 1 ngày 04/6/2008. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do ông D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, thường xuyên rượu chè về nhà kiếm cớ đánh đập, chửi mắng bà. Bà đã cố gắng nhẫn nhịn để gia đình êm ấm nhưng ông D vẫn không thay đổi. Từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay bà không còn tình cảm với ông D nữa, bà xin ly hôn với ông D.

Về con chung: Bà và ông D có 02 con chung tên Nguyễn D1 – sinh ngày 22/9/2006 và Nguyễn Thị Kim P – sinh ngày 16/02/2009. Sau khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu P, giao cháu D1 cho ông D nuôi dưỡng. Không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Nguyễn D: Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa đã tiến hành thực hiện các thủ tục triệu tập, xác minh và tống đạt hợp lệ để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông D không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thu T nên Tòa án đưa vụ án ra giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa đã tuân theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng dân sự quy định trong quá trình giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Cuộc sống hôn nhân của bà Lê Thị Thu T và ông Nguyễn D đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà T là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Căn cứ theo quy định tại Điều 58; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao con chung là Nguyễn Thị Kim P – sinh ngày 16/02/2009 cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao con chung là Nguyễn D1 – sinh ngày 22/6/2006 cho ông D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà T không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Thu T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thủ tục tố tụng: Bà Lê Thị Thu T xin ly hôn ông Nguyễn D, yêu cầu giải quyết con chung, tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn ông Nguyễn D hiện đang cư trú tại thôn V, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Nguyễn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn D.

[2] Về NỘI DUNG VỤ ÁN

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thu T và ông Nguyễn D chung sống với nhau từ năm 2005, đến năm 2008 tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 22, quyển số 1 ngày 4/6/2008, đây là hôn nhân hợp pháp.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo lời trình bày của nguyên đơn thì mâu thuẫn gia đình phát sinh do ông D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, thường xuyên rượu chè về nhà đánh đập bà T. Từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Bà T và ông D đã không còn sống chung, không ai quan tâm đến ai. Nay bà T không còn tình cảm với ông D nữa nên xin ly hôn với ông D. Bị đơn ông Nguyễn D đã được Tòa án triệu tập để tiến hành hòa giải nhưng vẫn vắng mặt, thể hiện ông D không muốn hòa giải, hàn gắn cuộc sống gia đình với bà Thi.

Theo biên bản xác minh ngày 22/6/2020 tại Ủy ban nhân dân xã N thể hiện: Quá trình vợ chồng ông D, bà T sinh sống tại địa phương thì vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, ông D thường xuyên đánh bà T. Hiện nay, ông D và bà T không còn sống chung với nhau. Cháu Nguyễn Thị Kim P hiện sống với bà T, cháu Nguyễn D1 hiện đang sống với ông Nguyễn D.

Có thể thấy, cuộc sống vợ chồng bà T và ông D có mâu thuẫn, đời sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T. Bà T được ly hôn với ông D.

[2.2] Về con chung: Bà T và ông D có 02 con chung là Nguyễn D1 – sinh ngày 22/9/2006 và Nguyễn Thị Kim P – sinh ngày 16/02/2009. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu P, giao cháu D1 cho ông D nuôi; không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, cháu Nguyễn Thị Kim P là con gái, hiện đang sống cùng bà T và cũng có nguyện vọng muốn ở với bà T nên giao cháu P cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sẽ đảm bảo tốt hơn cho sự phát triển của cháu P. Còn cháu Nguyễn D1 là con trai, hiện đang sống cùng ông D và có nguyện vọng muốn ở với ông D nên giao cháu D1 cho ông D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Bà T không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà Lê Thị Thu T phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. [4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ vào Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Thu T. Bà Lê Thị Thu T được ly hôn với ông Nguyễn D.

Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thị Kim P - sinh ngày 16/02/2009 cho bà Lê Thị Thu T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao con chung là Nguyễn D1 - sinh ngày 22/9/2006 cho ông Nguyễn D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà Lê Thị Thu T không yêu cầu ông Nguyễn D cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Lê Thị Thu T và ông Nguyễn D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có thể yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng và người trực tiếp nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Thu T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Về án phí: Bà Lê Thị Thu T phải nộp 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) bà T đã nộp theo biên lai số AA/2018/0009585 ngày 02/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Như vậy, bà T đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguyên đơn bà Lê Thị Thu T được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông Nguyễn D vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về ly hôn

Số hiệu:49/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về