Bản án 49/2020/DS-ST ngày 08/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 49/2020/DS-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2020/TLST-DS ngày 10 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2020/QĐXX-ST ngày 03 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phấn H, sinh năm 1980; địa chỉ: Tổ 16, ấp T, xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt

2. Bị đơn: Anh Vũ Ngọc L, sinh năm 1983 và chị Dương Thị H1, sinh năm 1976; Cùng địa chỉ: Tổ 1, ấp K, xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07 tháng 02 năm 2020, cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phấn H trình bày: Ngày 18/6/2019, anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 có vay của chị số tiền 50.000.000 đồng, thỏa thuận 02 tháng sau sẽ trả, mục đích vay để làm chuồng nuôi bò. Đến hẹn ngày 28/9/2019 anh L, chị H1 không trả tiền mà còn vay thêm chị số tiền 25.000.000 đồng, tổng cộng hai lần vay là 75.000.000 đồng và anh chị có hẹn đến tháng 11/2019 vay vốn ngân hàng xong sẽ trả.

Đến hẹn trả tiền chị có đến nhà yêu cầu anh L, chị H1 trả số tiền 75.000.000 đồng nhưng anh chị cứ hứa hẹn nhưng không trả. Đến tháng 6/2020 thì chị H1, anh L có trả cho chị số tiền 16.000.000 đồng, còn nợ lại 59.000.000 đồng.

Nay, chị yêu cầu anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 trả cho chị số tiền vay là 59.000.000 đồng, không yêu cầu chị H1, anh L trả tiền lãi.

Bị đơn anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, không có văn bản trình bày ý kiến.

- Ý kiến của đại diện Việm kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt Nội quy phiên tòa.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Đề nghị Hội đồng xét xử xử theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Phấn H đối với anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1. Buộc anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Phấn H số tiền vay gốc là 59.000.000 đồng, ghi nhận chị Nguyễn Thị Phấn H không yêu cầu anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 trả tiền lãi.

Về án phí: Anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Căn cứ vào biên bản xác minh ngày 10 tháng 02 năm 2020 tại ấp K, xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh thấy rằng: Anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Tổ 1, ấp K, xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh có nhà cửa ổn định nhưng hiện tại anh L và chị H không còn sinh sống tại địa phương. Trong đơn khởi kiện, người khởi kiện (chị Nguyễn Thị Phấn H) đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú người bị kiện (anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1) địa chỉ được ghi trong 02 Giấy vay tiền ngày 18/6/2019 và ngày 28/9/2019 nên được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú”. Trong vụ án này, người bị kiện (anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1) thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng vay tài sản mà không thông báo cho chị Nguyễn Thị Phấn H biết về nơi cư trú, làm việc mới theo quy định nên được coi là cố tình giấu địa chỉ nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung là có căn cứ, đúng pháp luật. Xác định nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú cuối cùng của anh L và chị H là tại Tổ 1, ấp K, xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

Chị Nguyễn Thị Phấn H là nguyên đơn, vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 là bị đơn, vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Phấn H, anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Phấn H cho anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 vay tiền qua 02 lần tổng cộng là 75.000.000 đồng, cụ thể cho vay lần thứ nhất ngày 18/6/2019 cho vay 50.000.000 đồng, lần thứ hai cho vay ngày 28/9/2019 số tiền 25.000.000 đồng hẹn đến tháng 11/2019 vay vốn ngân hàng xong sẽ trả lại tiền nhưng anh L, chị H vẫn không trả. Đến tháng 6/2020, anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 có trả cho chị Nguyễn Thị Phấn H được số tiền 16.000.000 đồng còn nợ lại 59.000.000 đồng. Khi cho vay không thỏa thuận tiền lãi, không thế chấp tài sản. Sau khi vay tiền thì anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 bỏ địa phương đi không rõ đi đâu. Chị Nguyễn Thị Phấn H làm đơn khởi kiện yêu cầu anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 có nghĩa vụ trả số tiền vay gốc là 59.000.000 đồng và không yêu cầu trả tiền lãi.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Phấn H đối với anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 về số tiền vay gốc 59.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:

Tại giấy vay tiền ngày 18/6/2019, anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 có ký nhận nợ chị Nguyễn Thị Phấn H số tiền 50.000.000 đồng và giấy vay tiền ngày 28/9/2019 chị Dương Thị H1 có ký nhận nợ chị Nguyễn Thị Phấn H số tiền 25.000.000 đồng, hẹn đến ngày 11/2019 sẽ trả nhưng vẫn không thực hiện. Đến tháng 6/2020, anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 có trả cho chị Nguyễn Thị Phấn H số tiền 16.000.000 đồng, còn nợ lại 59.000.000 đồng. Do đó, đủ căn cứ xác định anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 nợ chị Nguyễn Thị Phấn H số tiền vay gốc 59.000.000 đồng. Do anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 đã vi phạm nghĩa vụ của bên vay nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Phấn H về việc buộc anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Phấn H số tiền vay gốc 59.000.000 đồng. Chị Nguyễn Thị Phấn H không yêu cầu tính tiền lãi, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị Phấn H yêu cầu rút lại 01 phần yêu cầu khởi kiện đối với anh Vũ Ngọc L, chị Dương Thị H1 về số tiền vay gốc là 16.000.000 đồng, việc rút yêu cầu này là tự nguyện, đúng theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ yêu cầu của chị H về số tiền vay gốc là 16.000.000 đồng.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của chị Nguyễn Thị Phấn H được chấp nhận nên anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự; các Điều 144; 147; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Phấn H đối với anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Buộc anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 cùng có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Phấn H số tiền 59.000.000 (năm mươi chín triệu) đồng. Ghi nhận chị Nguyễn Thị Phấn H không yêu cầu anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 trả tiền lãi.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Phấn H đối với anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 về số tiền 16.000.000 (mười sáu triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của chị Nguyễn Thị Phấn H cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

Anh Vũ Ngọc L và chị Dương Thị H1 phải chịu 2.950.000 (hai triệu chín trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị Phấn H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị Phấn H số tiền 1.875.000 (một triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm chị Nguyễn Thị Phấn H đã nộp tại biên lai thu số 0000345 ngày 10/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2020/DS-ST ngày 08/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:49/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về