Bản án 49/2019/HSST ngày 21/10/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 49/2019/HSST NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 21 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/2019/HSST ngày 27 tháng 9 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019; Đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Hồ Viết L (Tên gọi khác: LK); sinh năm: 1989; tại: Bình Phước; HKTT: khu phố I, phường T, thị xã P, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 05/12; nghề nghiệp: Làm nông; họ và tên cha: Hồ Xuân T, họ và tên mẹ: Ngô Thị T; bị cáo có vợ: Dương Thị T và 01 người con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/6/2019 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Đỗ Văn M (tên gọi khác: MM) sinh năm: 1997; tại: Bình Phước; HKTT: Khu phố S, phường S, thị xã P, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Làm nông; họ và tên cha: Đỗ Văn X, họ và tên mẹ: Mai Thị H; bị cáo có 01 người chị sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/8/2019 đến nay, bị cáo có mặt.

Người bị hại: Anh Lê Văn N, sinh năm 1995. (có mặt)

Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Dương Thị T, sinh năm 1992. (có mặt)

Địa chỉ: Khu phố N, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Thượng Đ, sinh năm: 1998. (Có mặt)

Trú tại: Khu phố B, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

- Anh Trần Quang T, sinh năm 1978. (Có mặt)

Trú tại: Khu phố N, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 07/5/2019, Lê Văn N và Nguyễn Thượng Đ đến tiệm xăm “Nhật Con Nít”-thuộc khu B, phường L, thị xã P. Lúc này, Nguyễn Duy Tuấn A một mình trông tiệm. N và Đ hỏi A: “N (chủ tiệm) có ở nhà không”, A trả lời: “Anh N đi ra ngoài rồi”. Nghe vậy, N và Đ lao vào đánh A. Sau đó, N và Đ về nhà T-cùng khu B, phường L.

Sau khi bị đánh, A gọi điện thoại cho Đỗ Văn M đến chở về công ty vệ sỹ “Bình Luận”-thuộc khu I, phường T, thị xã P, gặp Hồ Viết L cùng vợ là Dương Thị T đang uống bia cùng Nguyễn Văn H và đối tượng H, L (không rõ nhân thân lai lịch). Thấy A bị thương nên L hỏi thì biết N và Đ đánh A. L bực tức, muốn tìm Đ để đánh trả thù nên gọi điện thoại cho đối tượng Th (không rõ nhân thân lai lịch) với nội dung: “Kéo vào công ty trong Phước Long anh đang có chuyện”. Khoảng 10 phút sau, Th cùng các đối tượng H, T (không rõ nhân thân lai lịch) chạy đến công ty vệ sỹ “Bình Luận”.

M điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 93K1-19132, chở H và L (khi ra xe, M thấy L mang theo 01 dao inox dài 30 cm, phần lưỡi dao dài 18 cm, phần sống dao có hình răng cưa, trên lưỡi dao có dòng chữ “LJ3 STAINLEES STEEL KITCHEN KNIFE, mũi dao có 01 lỗ tròn đường kính 01 cm). Khi đến nhà T, thấy T cùng N đang đốt vàng mã trước nhà, Th chạy vào dùng chân đạp N ngã xuống đất, L chạy vào, cầm dao bằng tay phải chém N 03 nhát (một nhát vào bên hông trái, một nhát vào vai bên trái, một nhát vào bắp tay bên trái). N vừa ngồi dậy thì bị H dùng dao chém 02 nhát (một nhát vào cánh tay trái, một nhát vào mu bàn tay trái). Thấy N bị chém, T bỏ chạy vào nhà, còn Đ lấy 01 gậy inox đánh nhau với nhóm của Th. Sau khi chém N, L hô: “Rút” nên cả nhóm lên xe bỏ trốn. N được mọi người đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế thị xã Phước Long .

Ngày 09/5/2019, L đến Cơ quan điều tra đầu thú, Cơ quan điều tra thu giữ 01 dao inox màu trắng dài 30 cm.

Căn cứ Kết luận giám định pháp y về thương tích số 162 ngày 20/5/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Phước kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương trước vai trái kích thước 1,5x0,1 cm, còn chỉ khâu.

- Vết thương 1/3 giữa-sau cánh tay trái kích thước 0,5x0,1 cm, còn chỉ khâu.

 - Vết thương 1/3 giữa-sau-trong cẳng tay trái kích thước 3x0,1 cm, còn chỉ khâu.

- Mẻ 1/3 giữa xương trụ trái.

- Vết thương mặt mu xương bàn II tay trái kích thước 1,5x0,1 cm, còn chỉ khâu.

- Vết thương vùng hông chậu trái kích thước 11x0,2 cm, còn chỉ khâu.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 11% (mười một phần trăm).

Ngày 25/6/2019, Dương Thị T đã bồi thường cho Lê Văn N số tiền 20.000.000 đồng, N không có yêu cầu gì thêm và viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Hồ Viết L.

Riêng xe mô tô biển kiểm soát 93K1-19132, M bán cho đối tượng tên N ở Phú Riềng với giá 8.000.000 đồng vào giữa tháng 7/2019 nên không thu giữ được.

Cáo trạng số 45/CT-VKS ngày 25 tháng 09 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long truy tố các bị cáo Hồ Viết L và Đỗ Văn M về tội "Cố ý gây thương tích" quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long giữ quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa, sau khi xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như trong nội dung bản cáo trạng và đề nghị:

Về tội danh và hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Hồ Viết L và Đỗ Văn M phạm tội "Cố ý gây thương tích", đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các điều 17, 58, 38 của Bộ luật hình sự và đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo Hồ Viết L từ 24 đến 30 tháng tù, áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các điều 17, 58, 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Văn M từ 18 đến 24 tháng tù, cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

Các bị cáo không tranh luận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thị xã Phước Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo, lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai những người làm chứng là hoàn toàn phù hợp với nhau về thời gian, không gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án cùng vật chứng vụ án diển biến hành vi phạm tội của các bị cáo HĐXX đủ cơ sở kết luận;

Khoảng 23 giờ ngày 07/5/2019, Hồ Viết L đang ngồi uống bia cùng T, H, L tại Công ty vệ sỹ Bình Luận thuộc khu phố I, phường T, thị xã P, tỉnh Bình Phước thì thấy Nguyễn Duy Tuấn A là bạn bè đến và nói bị Lê Văn N và Nguyễn Thượng Đ đánh. L điện thoại cho Th và mang theo một con dao dạng chặt đá dài 30cm, kêu Đỗ Văn M dùng xe mô tô chở L và H đi tìm N đánh trả thù. Khi phát hiện thấy N đang đứng trước cửa nhà T, M điều khiển xe tới, ngay tức khắc T chạy vào đạp N ngả xuống đất L cầm dao chém ba nhát vào vai, hông và bắp tay bên trái của N. N vừa ngồi dậy thì bị H chém 2 nhát vào tay.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số: 162/2019/TgT ngày 20/5/2019 của Trung tâm pháp ý Sở y tế tỉnh Bình Phước kết luận tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Lê Văn N là 11%.

Hồ Viết L và Đỗ Văn M nhận thức rõ hành vi giúp sức cho nhau dùng dao là loại hung khí nguy hiểm tấn công người khác là vi phạm pháp luật. nhưng với động cơ mục đích muốn giải quyết mâu thuẫn bằng cách trả thù cho bạn M và L đã tước đi 11% sức lao động của anh N, chứng tỏ thái độ của L và M coi thường pháp luật rất rõ.

Hành vi của Hồ Viết L và Đỗ văn M đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự, như Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố các bị cáo là đúng hành vi, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người khác, gây huyên náo khu dân cư, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù trước khi phạm tội các bị cáo không có sự bàn bạc kế hoach phạm tội phân công cụ thể. Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, xong thể hiện vai trò của từng bị cáo rất rõ. Hồ Viết L là người khởi xướng, chủ mưu và cũng là người trực tiếp thực hành phạm tội. M là người biết rõ L mang dao đi để đánh N nhưng vẫn dùng xe mô tô chở L và H đến nơi gây án, vai trò của M là người giúp sức cho L hoàn thành tội phạm. Mặt khác vào năm 2011 bị cáo L bị Tòa án nhân dân thị xã Phước Long xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội cướp tài sản đã được xóa án tích không tính tái phạm nhưng thể hiện thái độ của L không biết ăn năn hối cải và coi thường pháp luật rất cao.

Xét tính chất tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội các bị cáo gây ra cần xử phạt các bị cáo mức án thật nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm giáo dục cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tự nguyện ra đầu thú; đã khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại cho người bị hại, nguyên nhân dẫn đến các bị cáo phạm tội cũng một phần cũng do lỗi của người bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Ngoài ra bị cáo L là lao động chính trong gia đình, đối với bị cáo M phạm tội lần đầu do rủ rê lôi kéo tham gia với vai trò giúp sức thứ yếu tại phiên tòa tỏ ra ăn năn hối cải, xử cần giao bị cáo M về nới cư trú giám sát giáo dục cũng đủ cải tạo bị cáo.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra gia đình bị cáo L đã bồi thường cho bị hại N số tiền 20.000.000đ. Bị hại không yêu cầu các bị cáo phải tiếp tục bồi thường, HĐXX không đề cập giải quyết.

Về vật chứng: Đối với 01 dao inox dài 30 cm, phần lưỡi dao dài 18 cm, phần sống dao có hình răng cưa, mũi dao có 01 lỗ đường kính 01 cm là công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với Nguyễn Văn H có hành vi đi cùng Hồ Viết L và theo lời khai của Lê Văn N thì H dùng dao chém N 02 nhát nhưng hiện nay H đã bỏ trốn khỏi địa phương cùng các đối tượng Th, H, T (không rõ nhân thân lai lịch), Cơ quan điều tra tiếp tục xác M xử lý sau. Vì vậy HĐXX không đề cập xử lý.

Đối với Nguyễn Thượng Đ và Lê Văn N có hành vi đánh Nguyễn Duy Tuấn A nhưng thương tích không đáng kể nên ngày 05/9/2019, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phước Long xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt 750.000 đồng/ người. Xét việc xử lý là đúng nên HĐXX không đề cập.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề xuất mức hình phat đối với bị cáo Hồ Viết L từ 24 đến 30 thàng tù. Đối với bị cáo Đỗ Văn M từ 18 đến 24 thàng tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Các bị cáo Hồ Viết L (LK) và Đỗ Văn M (MM) phạm tội "Cố ý gây thương tích".

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 17, 38, 58 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Hồ Viết L (LK) 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam (ngày 28/6/2019). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo Thi hành án.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 17, 58, 65 của Bộ luật hình sự; Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ văn M (MM) 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 03 (ba) năm, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án (Ngày 21/10/2019).

Giao bị cáo Đỗ Văn M (MM) về Ủy ban nhân dân phường T, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước quản lý giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của bộ luật hình sự.

Tuyên trả tự do tại phiên tòa cho bị cáo Đỗ Văn M (MM), nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.

[2]. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy Đối với 01 dao inox dài 30 cm, phần lưỡi dao dài 18 cm, phần sống dao có hình răng cưa, mũi dao có 01 lỗ đường kính 01 cm.

[3] Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo, ngượi bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HSST ngày 21/10/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:49/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về