TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 20 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Lê Đình K, tên gọi khác: Không có, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1992, tại huyện LM, tỉnh Hậu Giang. Nơi cư trú: Ấp TP, xã TPT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tiến D, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị Xuân M, sinh năm1964; anh chị em ruột: có 01 người sinh năm 1982; bị cáo có vợ là Dương Thị Phượng H, sinh năm 1995, có 01 người con sinh năm 2017; tiền án: Không, tiền sự: Không có; bị cáo đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Lê Bưu Đ, sinh năm 1981, ĐKTT: Thôn KH, xã HN, huyện HH, tỉnh Nam Định.
Chỗ ở hiện nay: Ấp TP, thị trấn CT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Vắng mặt.
Người làm chứng: Dương Thị Phượng H, địa chỉ: Ấp TP, xã TPT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Có mặt.
Nguyễn Như Thiệp, địa chỉ: Ấp TM, xã TPT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang – Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 13/9/2019, bị cáo Lê Đình K điều khiển xe mô tô BKS 95H1-336.40 chở vợ là Dương Thị Phượng Hằng đến quán Cầy Nam Định do ông Lê Bưu Đ làm chủ để mua thịt chó về ăn. Khi đến quán, Hằng ngồi ngoài xe chờ, bị cáo K vào quán kêu ông Đ bán 80.000đồng thịt chó. Trong lúc ông Đ vào bếp lấy thịt chó thì K phát hiện trên bàn gần đó có 01 Đ thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, K quan sát thấy không ai trông coi nên lấy Đ thoại bỏ vào túi quần và nói với ông Đ đi công việc lát sẽ quay lại lấy thịt chó sau. Sau khi lấy được Đ thoại, bị cáo K ra xe và chở Hằng về nhà. Do Đ thoại vừa trộm được có cài mật khẩu, K mở nhiều lần không được và làm Đ thoại bị khóa. Vì vậy, K đem Đ thoại đến tiệm Đ thoại di động ở Cái Tắc nhờ anh Nguyễn Như Thiệp chạy chương trình để mở khóa, anh Thiệp lúc đó cũng không mở được nên kêu K để Đ thoại lại để anh chạy lại chương trình. Đến ngày 17/9/2019 bị cáo K đến gặp anh Thiệp lấy Đ thoại lại, Đ thoại lúc này vẫn chưa mở khóa được. Ông Lê Bưu Đ sau khi phát hiện mất Đ thoại đã xem lại camera và trình báo công an về việc mất Đ thoại.
Đến 10 giờ ngày 17/9/2019 bị cáo K cầm Đ thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 đến Công an xã Tân Phú Thạnh để đầu thú và giao nộp Đ thoại.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 32/KL.ĐGTS ngày 27/9/2019 của Hội đồng thẩm định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành A đã định giá và kết luận 01 Đ thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 có giá trị là 4.394.500đồng.
Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 Đ thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7.
Tại Cáo trạng số 53/CT-VKS-HCTA ngày 31 tháng 10 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A đã truy tố bị cáo K về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo Lê Đình K về tội Trộm cắp tài sản. Sau khi phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phân tích hành vi, tính chất, mức độ, nhân thân của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Đình K phạm tội "Trộm cắp tài sản", đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Đình K từ 6 tháng đến 1 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 1 năm đến 2 năm.
Về trách nhiệm dân sự, bị cáo và bị hại Lê Bưu Đ đã thỏa thuận bị cáo mua lại cho bị hại 01 Đ thoại di động mới nhãn hiệu Samsung Galaxy A50S với giá 7.290.000đồng và bị cáo K được nhận Đ thoại Samsung Galaxay A7 để sử dụng và ông Đ không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm. Đây là sự tự thỏa thuận của bị cáo và bị hại, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.
Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan công an đã xử lý giao lại cho bị cáo K 01 Đ thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxay A7 theo như thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại. Đối với chị Dương Thị Phượng Hằng đi cùng bị cáo K nhưng không biết việc K trộm Đ thoại nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Việc khởi tố, điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A, việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố hình sự 2015. Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại Lê Bưu Đ, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của bị hại. Đồng thời, bị hại Lê Bưu Đ đã thỏa thuận bồi thường xong với bị cáo và không yêu cầu bồi thường thêm và có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Đ. [2] Về nội dung giải quyết vụ án:
[2.1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Đình K đều thừa nhận hành vi bị cáo đã thực hiện. Đối chiếu lời thừa nhận của bị cáo với lời khai của bị hại, lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án là phù hợp, chứng minh được như sau: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 13/9/2019, bị cáo Lê Đình K khi vào quán Cầy Nam Định của ông Lê Bưu Đ để mua thịt chó, lợi dụng sự sơ hở của ông Đ đã lén lút lấy 01 Đ thoại di động Nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 của ông Đ có giá trị là 4.394.500đồng.
Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc lén lút lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện mục đích muốn chiếm đoạt tài sản của người khác do bản tính tham lam. Vì vậy, hành vi của bị cáo K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của bị cáo gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần có mức hình phạt thích đáng để răn đe, giáo dục bị cáo.
[2.2] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị cáo đầu thú, bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo, đây được xem là tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[2.3] Về hình phạt: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương quản lý, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
[2.4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bị cáo mua lại cho bị hại 01 Đ thoại di động mới nhãn hiệu Samsung Galaxy A50S với giá 7.290.000đồng, bị hại đồng ý giao cho bị cáo 01 Đ thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7 để bị cáo sử dụng và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm. Xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo và bị hại, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[2.5] Về xử lý vật chứng trong vụ án: Vật chứng bị thu giữ trong vụ án đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A xử lý trả lại cho bị cáo theo sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2.6] Về án phí: Bị cáo K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A là có căn cứ đúng pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Đình K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Xử phạt bị cáo Lê Đình K 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày xét xử sơ thẩm ngày 20 tháng 11 năm 2019.
2. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang quản lý và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.
3. Trong thời gian thử thách, bị cáo Lê Đình K cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc bị cáo K phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.
4. Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã xử lý xong.
5. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong ở giai đoạn điều tra và không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.
6. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH quy định về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lê Đình K phải nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo phần bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án 49/2019/HS-ST ngày 20/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 49/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về