Bản án 49/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 49/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 185/2019/TLST-HNGĐ ngày 27/8/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/11/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2019/QĐST-HNGĐ ngày 15/11/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mai Thị H, địa chỉ: 1197/6 đường T, phường L, thị xã B, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phan Thanh S, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 26/8/2019, bản tự khai ngày 26/9/2019 cũng như tại phiên toà, nguyên đơn chị Mai Thị H đều trình bày: Chị và anh S trước đây yêu nhau và kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 26/5/2014. Sau kết hôn, vợ chồng vào tỉnh Lâm Đồng để làm ăn và thuê nhà trọ tại thị xã B, tỉnh Lâm Đồng, khi bắt đầu sống chung đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân anh S không chú tâm làm ăn, thường xuyên ăn nhậu, say xỉn về nhà gây gổ, đánh đập chị, chị đã nhiều lần góp ý, khuyên can nhưng anh S không tiếp thu, khắc phục mà còn làm cho tình hình căng thẳng hơn, không chịu đựng nỗi, chị đã về nhà bố mẹ chị sống, còn anh S về quê sống với mẹ anh ở xã T, hai người ly thân nhau kể từ tháng 6 năm 2015 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai, chị xác định tình cảm vợ chồng hiện tại đã hết và yêu cầu được ly hôn anh S. Bị đơn anh Phan Thanh S vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai cũng như các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng tại đơn trình bày ngày 11/10/2019, anh S nộp trực tiếp tại Tòa án, anh thừa nhận quá trình yêu nhau và kết hôn như chị H trình bày, về mâu thuẫn vợ chồng như chị H trình bày là không đúng, theo anh, vợ chồng sống chung hòa thuận, hạnh phúc từ khi kết hôn đến nay không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ có một số khúc mắc nhỏ anh nghĩ là lẽ thường, không ngờ chị H làm đơn xin ly hôn. Anh đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con khôn lớn. Anh S không nhất trí ly hôn và không chấp nhận giao con cho chị H nuôi dưỡng.

Con chung: Chị H, anh S trình bày: Anh, chị có một con chung Phan Hoài T, sinh ngày 22/5/2015. Từ khi vợ chồng ly thân con vẫn ở với chị H, nguyện vọng của chị được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, trước đây chị không yêu cầu nhưng nay chị yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ tháng 01/2020 cho đến khi con tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không có, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Phan Thanh S đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử; giấy triệu tập và quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị H và anh Phan Thanh S đăng ký kết hôn với nhau ngày 26/5/2014 tại UBND xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp; anh S thiếu quan tâm xây dựng hạnh phúc gia đình, thể hiện qua việc thờ ơ không chăm lo vợ, con, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã, xích mích nhau làm cho tình cảm mất mát. Chị H cũng như gia đình, bạn bè hai bên đã nhiều lần vận động, góp ý và mong rằng anh S thay đổi nhưng không có kết quả nên chị đã sống ly thân từ tháng 6/2015 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến ai nữa.

Anh S đã được Tòa án thông báo các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần, kể cả phiên tòa lần thứ hai được tống đạt hợp lệ nhưng anh S vẫn vắng mặt không có lý do. Song sau khi phiên hòa giải lần thứ nhất vào ngày 26/9/2019 không thực hiện được vì anh S vắng mặt thì đến ngày 11/10/2019 anh S đến tòa trình bày quan điểm, mâu thuẫn vợ chồng chỉ có những khúc mắc nhỏ nhặt không đáng kể và không chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của chị H mà muốn được đoàn tụ để cùng nhau nuôi con. Tòa án đã tạo điều kiện về mặt thời gian, đồng thời vận động anh S cần phối hợp hòa giải để đạt được kết quả nhưng hai phiên hòa giải tiếp theo, anh S vẫn vắng mặt. Chứng tỏ anh S đưa ra quan điểm muốn đoàn tụ nhưng không thiện chí, không quan tâm việc bảo vệ hạnh phúc gia đình và không tha thiết hàn gắn tình cảm với chị H nữa. Chị H xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn anh S.

Xét thấy, tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho hai bên ly hôn nhau là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị H, anh S có một con chung, ly hôn chị H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy, con chung của anh S và chị H là Phan Hoài T, sinh ngày 22/5/2015, từ khi vợ chồng ly thân đến nay, con vẫn ở với chị H. Qua đơn trình bày ngày 11/10/2019, anh S không chấp nhận giao con cho chị H nuôi dưỡng nhưng vắng mặt tại phiên tòa, không thể hiện ý chí, nguyện vọng gì về con nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H giao con cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, buộc anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ tháng 01/2020 cho đến khi con tròn 18 tuổi là phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3].Tài sản chung: Không có, chị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4].Về án phí: Chị H, anh S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Mai Thị H và anh Phan Thanh S được ly hôn nhau.

2.Về con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử giao cho chị Mai Thị H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Phan Hoài T, sinh ngày 22/5/2015. Buộc anh S cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ tháng 01/2020 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai số: 0005837 ngày 26/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ. Chị H đã nộp đủ án phí. Anh S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật Thi hành án dân sự.

Chị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/11/2019, anh S được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:49/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về