Bản án 49/2019/HNGĐ-ST ngày 08/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 49/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số:132/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Mộng C, sinh năm 1992, địa chỉ: ấp P, xã P1, huyện M, tỉnh Bến Tre, có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 19/6/2019.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1980, địa chỉ: ấp P, xã P1, huyện M, tỉnh Bến Tre, vắng mặt không có lý do lần 2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/4/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn chị Trần Thị Mộng C trình bày:

Về hôn nhân: Trên cơ sở tự tìm hiểu quen biết nhau trước chị và anh Nguyễn Thanh L tự nguyện tiến đến hôn nhân, tổ chức lễ cưới vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P1, huyện M, vào ngày 06/4/2011. Sau khi thành hôn, anh chị sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì bắt đầu mất hạnh phúc. Nguyên nhân mất hạnh phúc là do anh chị có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau. Anh chị chính thức sống ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân anh chị có gặp gỡ nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Nay chị xin được ly hôn với anh L vì không còn tình cảm.

Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Thanh Trà M, sinh ngày 29/4/2012 và Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 15/12/2017. Hiện cháu Đ đang sống với chị, cháu M đang sống với anh L. Nay ly hôn, chị xin nuôi cháu Đ, chị để cháu M cho anh L tiếp tục trực tiếp nuôi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung và không có nợ ai.

Bị đơn anh Nguyễn Thanh L vắng mặt trong suốt quá trình Tòa giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến trình bày của anh L.

Tại Biên bản lấy ý kiến ngày 20/5/2019, cháu Nguyễn Thanh Trà M trình bày như sau:

Nếu cha và mẹ cháu ly hôn với nhau thì cháu có nguyện vọng được tiếp tục sống với cha. Theo cháu, cha có đầy đủ điều kiện đảm bảo nhu cầu học tập, vật chất và tinh thần cho cháu.

Tại biên bản xác minh về nguyên nhân mâu thuẫn của anh Nguyễn Thanh L và chị Trần Thị Mộng C đề ngày 01/4/2019 có nội dung như sau:

Chị Cầm và anh Lâm sau khi kết hôn sống tại gia đình anh L. Trong thời gian chung sống, anh L và chị C thường xuyên xảy ra cự cãi do chị C có điện thoại qua lại với người đàn ông khác, anh L thì tính tình ham chơi, có nợ nần nhưng gia đình đã trả xong. Anh L và chị C đã sống ly thân.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử là đảm bảo đúng pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là đảm bảo đúng quy định pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Mộng C; Về nuôi con chung: Chị Trần Thị Mộng C trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 15/12/2017, anh Nguyễn Thanh L trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Thanh Trà M, sinh ngày 29/4/2012, không ai phải cấp dưỡng nuôi con; Tài sản chung, nợ chung: không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc nhận định:

[1] Đối với nguyên đơn chị Trần Thị Mộng C có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 19/6/2019 nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị C là phù hợp. Đối với bị đơn anh Nguyễn Thanh L đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh L là phù hợp.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân của chị Trần Thị Mộng C và anh Nguyễn Thanh L là hôn nhân hợp pháp. Sau khi thành hôn, anh chị sống hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu mất hạnh phúc. Theo chị C trình bày nguyên nhân mất hạnh phúc là do anh chị có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau. Anh chị chính thức sống ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân anh chị có gặp gỡ nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Anh L vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nên không có lời trình bày. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh ngày 01/4/2019, có cơ sở xác định trong thời gian chung sống, anh L và chị C thường xuyên xảy ra cự cãi và anh chị đã sống ly thân. Ngoài ra, sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo cho anh Lâm đến Tòa để tham gia hòa giải nhằm tạo điều kiện cho anh chị hàn gắn nhưng anh L vẫn vắng mặt không lý do chứng minh anh không có thiện chí hàn gắn đoàn tụ. Và chị C cương quyết được ly hôn với anh L vì không còn tình cảm. Điều đó chứng tỏ rằng cuộc sống hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C là có căn cứ.

[3] Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Thanh Trà M, sinh ngày 29/4/2012 và Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 15/12/2017. Hiện cháu Đ đang sống với chị C, cháu M đang sống với anh L. Nay ly hôn, chị C xin nuôi cháu Đ, chị C để cháu M cho anh L tiếp tục trực tiếp nuôi. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh L không có văn bản trình bày ý kiến nhưng trong quá trình làm việc có cơ sở xác định cháu M đang sống với anh L và anh L cũng đủ điều kiện đảm bảo trực tiếp nuôi cháu M. Mặt khác, tại biên bản lấy ý kiến cháu M có nguyện vọng được tiếp tục sống với anh L. Xét thấy, hiện cháu M đang sống với anh L và anh L cũng đảm bảo điều kiện trực tiếp nuôi cháu M nên nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý của cháu M nên để cháu M cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của cháu M. Đối với cháu Đ hiện đang sống với chị C, cháu Đ hiện chưa đủ 36 tháng tuổi và chị C cũng đảm bảo điều kiện trực tiếp nuôi cháu Đ. Vì vậy, nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý của cháu Đ nên để cháu Đ cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật. Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, do anh L vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nên không có ý kiến, nếu có yêu cầu thì anh L được quyền khởi kiện trong một vụ kiện khác. Việc chị C không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi cháu Đ là sự tự nguyện của chị nên Tòa án ghi nhận.

[4] Về chia tài sản: Theo chị C trình bày là vợ chồng anh chị không có tài sản chung và không có nợ ai, anh L đã nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án tuy nhiên anh không có ý kiến hay yêu cầu, tranh chấp gì. Do đó không có căn cứ để xác định anh chị có tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Chị Trần Thị Mộng C phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc là phù hợp hoàn toàn với nhận định của Tòa nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 17 Luật phí và lệ phí; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Mộng C.

Chị Trần Thị Mộng C được ly hôn với anh Nguyễn Thanh L.

2. Về nuôi con chung: Anh Nguyễn Thanh L tiếp tục trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Thanh Trà M, sinh ngày 29/4/2012; Chị Trần Thị Mộng C tiếp tục trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 15/12/2017, không ai phải cấp dưỡng nuôi con do chị Trần Thị Mộng C không có yêu cầu, anh Nguyễn Thanh L vắng mặt không ghi nhận được ý kiến nên về yêu cầu cấp dưỡng thì anh L được quyền yêu cầu cấp dưỡng trong một vụ kiện khác.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3.Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung và cũng không có nợ ai nên không đề cập.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Mộng C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị C đã nộp theo biên lai thu số ******* ngày **/*/**** của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HNGĐ-ST ngày 08/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:49/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về