Bản án 490/2020/HNGĐ-ST ngày 14/09/2020 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 490/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 266/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2020 về “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 314/2020/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Ngô Thị H, sinh năm 1973; ĐKNKTT: Số 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Nơi ở: K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Anh Phạm Danh T, sinh năm 1973; ĐKNKTT và nơi ở: Số 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, cũng như các lời khai tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nguyên đơn chị Ngô Thị H trình bày:

- Về tình cảm: Chị Ngô Thị H và anh Phạm Danh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 21 tháng 01 năm 2000 tại UBND phường Thanh Xuân Nam, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại địa chỉ số 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đến năm 2013 thì anh chị chuyển về sống tại địa chỉ K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội (nhà của bố mẹ chị Hoa). Trong quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm, không hòa hợp về mọi mặt từ cách chăm sóc con, đến cách đối nhân xử thế và mọi mặt trong cuộc sống, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Anh chị đã ly thân từ khoảng năm 2013 đến nay. Năm 2013 chị Hoa có làm đơn, nộp đơn xin ly hôn với anh Thanh tại Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, trong quá trình Tòa án giải quyết chị Hoa có làm đơn xin rút đơn xin ly hôn để anh chị được quay về cải thiện cuộc sống hôn nhân và đoàn tụ gia đình. Sau 7 năm trôi qua cuộc sống hôn nhân của anh chị không có sự thay đổi, mâu thuẫn vẫn xảy ra, anh Thanh không sửa đổi tính cách bản thân, hai bên gia đình có khuyên giải nhưng không có kết quả, anh Thanh vẫn nói những lời tục tĩu, chửi bới mẹ con chị, không có trách nhiệm trong việc nuôi dậy con. Từ tháng 5 năm 2020 anh chuyển về địa chỉ 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội để sinh sống. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Hoa xin được ly hôn với anh Thanh.

- Về con chung: Chị Hoa và anh Thanh có hai con chung là Phạm Thị Hiền Anh, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2000 và Phạm Nam Khánh, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2008. Hiện cả hai cháu đều đang ở cùng chị Hoa. Cháu Hiền Anh đã trưởng thành. Khi ly hôn chị Hoa có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Phạm Nam Khánh. Hiện nay, thu nhập của chị Hoa khoảng 13.500.000 đồng/tháng. Nếu Tòa án xử cho anh Thanh trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Khánh, chị Hoa xin được cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung và nhà ở chung (động sản và bất động sản): Chị Hoa và anh Thanh tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về các khoản vay nợ: Chị Hoa và anh Thanh không có vay nợ ai, không cho ai vay nợ, không yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Chị Hoa tự nguyện chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

* Trong bản tự khai và cũng như cac lời khai tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bị đơn là anh anh Phạm Danh T trình bày:

- Về tình cảm: Anh Phạm Danh T và chị Ngô Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 21 tháng 01 năm 2000 tại UBND phường Thanh Xuân Nam, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại địa chỉ số 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đến năm 2013 thì anh chị chuyển về sống tại địa chỉ K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội (nhà của bố mẹ chị Hoa). Trong quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, sống không hợp nhau, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Về kinh tế, anh Thanh làm ăn có sa sút nên kinh tế gia đình khó khăn, là một trong những nguyên nhân gây nên mâu thuẫn trong gia đình. Khi mâu thuẫn vợ chồng xảy ra, hai bên gia đình có biết, có hòa giải nhưng không có kết quả. Anh chị đã ly thân từ năm 2018 đến nay. Mâu thuẫn căng thẳng nhất vào tháng 5 năm 2020, anh đã chuyển về địa chỉ số 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội sinh sống cho đến nay. Anh Thanh biết dù vợ chồng còn ở với nhau cũng không còn hạnh phúc, nhưng anh vẫn mong chị Hoa cho anh thêm một cơ hội để vợ chồng hàn gắn tình cảm. Anh Thanh cho rằng, đối với anh, gia đình là quan trọng nhất, anh Thanh vẫn còn tình cảm với chị Hoa và hai con nên việc chị Hoa làm đơn xin ly hôn, anh Thanh không đồng ý ly hôn với chị Hoa.

- Về con chung: Anh Thanh và chị Hoa có hai con chung là Phạm Thị Hiền Anh, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2000 và Phạm Nam Khánh, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2008. Cả hai cháu hiện đang sống cùng chị Hoa tại địa chỉ K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Cháu Hiền Anh đã trưởng thành. Nếu anh Thanh và chị Hoa ly hôn, anh Thanh có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Khánh. Hiện nay, thu nhập của anh Thanh khoảng 8.000.0000 đồng/tháng, anh có nơi ở tại địa chỉ địa chỉ số 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, anh không yêu cầu chị Hoa cấp dưỡng tiền nuôi con. Nếu chị Hoa được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phạm Nam Khánh, anh Thanh cấp dưỡng tiền nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung và nhà ở: Anh Thanh và chị Hoa tự thỏa thuận, anh Thanh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về các khoản vay nợ: Anh Thanh và chị Hoa không có vay nợ ai, không cho ai vay nợ, không yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết Anh chị không có vay nợ chung, anh không yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết.

- Về lệ phí: Chị Hoa tự nguyện chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm, anh Thanh đồng ý.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 28/7/2020, ông Ngô Văn Đọn và bà Văn Thị Hũ (bố mẹ đẻ của chị Hoa) trình bày: Năm 2013, ông bà có mua một căn hộ tại Phòng 410, nhà K3 khu 7,2 ha, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Con gái ông bà là chị Hoa kết hôn với anh Thanh và cùng sinh sống với hai con là cháu Nam Khánh và Hiền Anh tại địa chỉ số 51 ngõ 140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Do nhà này đã cũ, xuống cấp nên ông Đọn bà Hũ cho vợ chồng anh Thanh chị Hoa về ở nhờ tại căn hộ 410 nhà K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc để đảm bảo sức khỏe và tiện việc cho các cháu đi học. Quá trình chung sống, giữa anh Thanh và chị Hoa xảy ra rất nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh chị bất đồng về quan điểm sống, cuộc sống không có hạnh phúc. Anh chị thường xuyên cãi nhau. Ông bà đã nhiều lần khuyên giải, giảng hòa nhưng không có kết quả. Tháng 5/2020, anh Thanh đã chuyển về sống tại số 51 ngõ 140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, còn ba mẹ con chị Hoa vẫn ở, sinh hoạt tại căn hộ 410 nhà K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc. Căn hộ này ông bà không sử dụng đến nên tiếp tục cho chị Hoa cùng hai cháu được ăn ở, sinh sống ở đây lâu dài. Anh Thanh và chị Hoa có hai con chung là cháu Phạm Thị Hiền Anh, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2000 và Phạm Nam Khánh, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2008. Cả hai cháu hiện đang sống cùng chị Hoa tại địa chỉ: K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Cháu Hiền Anh đã trưởng thành. Khi anh chị ly hôn, ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho các con của anh chị. Đối với tài sản chung, nhà ở và vay nợ của anh chị, bà không nắm rõ được, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản làm việc ngày 10/8 /2020, ông Đàm Văn Sản tổ trưởng tổ dân phố 10, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội) trình bày: Vợ chồng anh Phạm Danh T và chị Ngô Thị H có hộ khấu tại địa chỉ 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Anh Thanh và chị Hoa cưới, đăng ký kết hôn có sinh sống tại địa chỉ này, sau đó đã chuyển đi nơi khác sinh sống nhiều năm nay cụ thể ở đâu ông không nắm được. Khoảng 1 đến 2 tháng gần đây, anh Thanh chuyển về sinh sống tại địa chỉ số 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội một mình, chị Hoa và các con ở đâu ông không nắm được; Về mâu thuẫn tình cảm vợ chồng anh Thanh và chị Hoa, ông không nắm được. Nay chị Hoa xin ly hôn với anh Thanh, ông đề nghị Tòa án nhân dân quận Ba Đình giải quyết theo quy định của pháp luật, ông không có ý kiến gì; Về con chung, anh Thanh và chị Hoa có hai con chung là cháu Phạm Thị Hiền Anh đã trưởng thành và cháu Phạm Nam Khánh đang đi học. Nay anh chị ly hôn, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho các con của anh chị. Đối với tài sản chung, nhà ở và vay nợ của anh chị ông không nắm rõ được, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản làm việc ngày 10/8/2020, bà Nguyễn Thị Kim Dung là tổ trưởng tổ dân phố 13A phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội trình bày: Chị Ngô Thị H và anh Phạm Danh T cư trú tại phòng 410 K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội khoảng 5 đến 6 năm nay. Khoảng tháng 3/2020, anh Thanh chuyển đi nơi khác sinh sống chỉ còn ba mẹ con chị Hoa sinh sống tại địa chỉ này. Về tình cảm, mâu thuẫn vợ chồng giữ anh Thanh và chị Hoa, bà không nắm được vì anh Thanh và chị Hoa sống khá kín tiếng. Thỉnh thoảng bà gặp ba mẹ con chị Hoa đi cùng nhau, không thấy anh Thanh đi cùng bao giờ. Anh Thanh cũng không mấy khi giao tiếp, quan hệ với hàng xóm. Nay, chị Hoa xin ly hôn với anh Thanh tại Tòa án nhân dân quận ba Đình, bà không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật; Anh Thanh và chị Hoa có hai con chung là cháu Phạm Thị Hiền Anh đã trưởng thành và cháu Phạm Nam Khánh đang học cấp 3. Nay anh chị ly hôn, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật và tôn trọng nguyện vọng của các cháu; Về tài sản chung, nhà ở và vay nợ của anh chị, bà không nắm rõ được, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản tự khai ngày 26/6/2020, cháu Phạm Nam Khánh trình bày: Hiện cháu đang sống tại địa chỉ K3 khu 7,2 ha phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Nếu bố mẹ ly hôn, cháu xin được ở với mẹ để có điều kiện học tập, sinh hoạt để mẹ chăm sóc.

* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

+ Thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ án, quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của người tham gia tố tụng Điều 28, 39, 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

+ Chuyển thông báo thụ lý vụ án, các quyết định đến Viện kiểm sát và các tống đạt cho đương sự theo đúng quy định từ Điều 170 đến Điều 175; Điều 191; Điều 195; Điều 196; Điều 199 và khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:

+ Thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đã được tiến hành đúng theo quy định từ Điều 208 đến Điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 .

+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử đã được Thẩm phán thực hiện theo đúng quy định tại Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và đã được tống đạt hợp lệ cho đương sự:

+ Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định theo các nguyên tắc cơ bản về xét xử và thành phần Hội đồng xét xử đúng theo qui định tại Điều 63 và chương XIV Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

+ Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các nhiệm vụ, quyền hạn qui định tại Điều 51; Điều 237 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

+ Đối với đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay đương sự đã được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 76; Chấp hành đúng nội qui phiên tòa theo Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 2 Điều 4; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 267 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58; khoản 4 Điều 70; khoản 2 Điều 71; Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ngô Thị H; về con chung: Giao con chung là Phạm Nam Khánh, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2008 cho chị Ngô Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Anh Thanh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng; Về tài sản chung và nợ chung: anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét. Áp dụng vào Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Về án phí: Chị Hoa chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Ngô Thị H có đơn khởi kiện về việc xin ly hôn đối với anh Phạm Danh T và đề nghị giải quyết về việc nuôi con chung. Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Phạm Danh T là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại số 51/140 Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ba Đình theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.

- Về thủ tục giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hoa và anh Thanh đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự theo quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với chị Hoa và anh Thanh theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ và các chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Tòa án đã thu thập, có đủ cơ sở xác định: Chị Ngô Thị H kết hôn với anh Phạm Danh T trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thanh Xuân Nam, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội ngày 21/01/2000. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Quá trình chung sống, vợ chồng chị Hoa, anh Thanh phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống của hai người không hợp nhau, cuộc sống chung không hạnh phúc. Chị Hoa đã nộp đơn ly hôn ra Tòa án nhân dân quận Ba Đình để xin ly hôn anh Thanh nhưng sau đó chị đã rút đơn ly hôn về để đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện thể hiện mâu thuẫn của anh, chị đã kéo dài nhiều năm. Gia đình của anh, chị cũng đã khuyên giải cho anh chị nhưng không có kết quả. Khi mâu thuẫn căng thẳng xảy ra vợ chồng đã sống ly thân từ nhiều năm nay. Nay chị Hoa không còn tình cảm với anh Thanh nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa vợ chồng chị Ngô Thị H và anh Phạm Danh T đã căng thẳng, trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị Hoa đối với anh Thanh là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Hoa và anh Thanh có hai con chung là Phạm Thị Hiền Anh, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2000 và Phạm Nam Khánh, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2008. Cháu Hiền Anh đã trưởng thành. Trong quá trình giải quyết vụ án chị Hoa có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Nam Khánh không yêu cầu anh Thanh cấp dưỡng, anh Thanh cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Nam Khánh, yêu cầu chị Hoa cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng. Tại Bản tự khai ngày 26/6 /2020, cháu Nam Khánh có nguyện vọng xin được ở với mẹ sau khi anh chị ly hôn. Tại phiên tòa hôm nay chị Hoa và Thanh vẫn giữ nguyên đề nghị của mình được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khánh và về vấn đề cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét, chị Ngô Thị H và anh Phạm Thanh Danh đều có thu nhập về lương, đều có nơi ở có đủ điều kiện chăm sóc cháu Phạm Nam Khánh. Nhưng do cháu Khánh có đơn nguyện vọng xin ở với mẹ để tiện cho việc mẹ chăm sóc, học tập. Xét thấy, việc giao cho ai nuôi là để đảm bảo quyền lợi của đứa trẻ. Vì vậy, giao cháu Phạm Nam Khánh cho chị Hoa trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và đảm bảo quyền lợi cho cháu. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, anh Thanh tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Anh chị tự thoả thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Tòa án không xem xét giải quyết về tài sản chung của chị Hoa, anh Thanh.

Về khoản nợ: Anh chị xác nhận anh chị không có nợ ai, không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Ngô Thị H phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Ngô Thị H và anh Phạm Danh T có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình tham gia phiên tòa là có cơ sở, phù hợp với các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các căn cứ và nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; 58, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điêu 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Ngô Thị H.

2. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ngô Thị H được ly hôn anh Phạm Danh T.

3. Về việc nuôi con chung:

Xác nhận chị Hoa và anh Thanh có hai con chung là Phạm Thị Hiền Anh, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2000 và Phạm Nam Khánh, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2008. Cháu Hiền Anh đã trưởng thành. Giao con chung là cháu Phạm Nam Khánh cho chị Ngô Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Thanh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng, kể từ tháng 9/2020 đến khi cháu Khánh trưởng thành hoặc có sự thay đổi khác của pháp luật.

Anh Phạm Danh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

4. Về tài sản chung và nhà ở chung (động sản và bất động sản): Tòa án không xem xét, giải quyết.

Về khoản nợ: Tòa án không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Chị Ngô Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị Hoa đã nộp theo biên lai thu số 0024487 ngày 03 tháng 06 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Ngô Thị H và anh Phạm Danh T có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 490/2020/HNGĐ-ST ngày 14/09/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:490/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về