TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.B, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 488/2019/HS-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 461/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 473/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Ngọc L - Tên gọi khác: Không Giới tính: Nam Sinh năm 1986, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: 151/4, khu phố 3, phường E, thành phố B, tỉnh Đồng Nai Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Phật Trình độ học vấn: 05/12.
Nghề nghiệp: Không. - Chức vụ, đảng phái: Không Họ tên cha: Lê A, (đã chết);
Họ tên mẹ: Trần Thị X, Sinh năm: 1960 (còn sống);
Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình và chưa có vợ con.
Tiền án: 03
- Ngày 27/8/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 12 tháng tù theo bản án số 529 ngày 27/8/2013.
- Ngày 07/4/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 08 tháng tù theo bản án số 216 ngày 07/4/2016.
- Ngày 27/7/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 08 tháng tù theo bản án số 295 ngày 27/7/2017.
Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 10/7/2019, hiện bị caó đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (Có mặt)
Bị hại: Ông Ngô Trí C, sinh năm 1992
Địa chỉ: Tổ 5, KP5, P. G, TP. B, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ ngày 10/7/2019, Lê Ngọc L và đối tượng tên D (chưa rõ họ, địa chỉ) cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản, D dùng xe mô tô (không rõ biển số) chở L đi đến nhà trọ số S, tổ 5, khu phố 5, phường G, thành phố B thì D dừng xe lại đứng bên ngoài cảnh giới còn L đi vào trong phòng trọ số 2 của anh Ngô Trí C, sinh năm 1992, trú tại xã Tượng Sơn, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa đang thuê trọ, thấy anh Chiến đang nằm ngủ dưới nền phòng trọ bên cạnh có để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone7 Plus và 01 chiếc ví màu đen bên trong trong có 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) nên L đã lén lút đi đến lấy trộm số tài sản trên rồi đi ra ngoài để tẩu thoát thì anh Chiến tỉnh dậy phát hiện đuổi theo bắt giữ quả tang L cùng tang vật giao Công an phường G lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B để xử lý theo quy định. Riêng đối tượng tên D đã bỏ chạy thoát, quá trình điều tra L đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của anh Chiến.
Về các vấn đề khác của vụ án:
Vật chứng của vụ án:
- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone7 Plus, số Imei: 355345080275472, và 01 chiếc ví da màu đen bên trong có 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho anh Ngô Trí C.
- Tại bản kết luận định giá tài sản số 323/TCKH-HĐĐG ngày 06 tháng 8 năm 2019 đối với điện thoại di động Iphone7 Plus, số Imei: 355345080275472 có giá tri là 6.495.000 đồng (sáu triệu bốn trăm chín mươi lăm nghìn đồng), đối với chiếc ví da màu đen do không có nhãn hiệu chủng loại nên Hội đồng E không định giá.
Về dân sự: Ngô Trí C đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.
Tại Bản cáo trạng số 473/CT-VKSBH ngày 24/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Lê Ngọc L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt Lê Ngọc L từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. .
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc L không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Chiến đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.
- Về án phí: Bị cáo Lê Ngọc L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện theo quy định pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo vào khoảng 10 giờ ngày 10/7/2019, Lê Ngọc L và đối tượng tên D (chưa rõ họ, địa chỉ) đi đến nhà trọ số S, tổ 5, khu phố 5, phường G, thành phố B, đã có hành vi trộm cắp của anh Ngô Trí C 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone7 Plus có giá trị 6.495.000 đồng (sáu triệu bốn trăm chín mươi lăm nghìn đồng) và 01 chiếc ví màu đen bên trong trong có 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng), tổng giá trị là 7.745.000 đồng (bảy triệu bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) thì bị phát hiện bắt giữ qua tang L cùng tang vật giao Công an phường G lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B để xử lý theo quy định. Riêng đối tượng tên D đã bỏ chạy thoát.
[3]Về tội danh:
Xét thấy, lời khai của bị cáo cáo Lê Ngọc L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, người bị hại kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo cáo Lê Ngọc L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.
[4] Về tính chất, mức độ hành vi:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật, đã có nhiều tiền án về tội trộm cắp tài sản nhưng vẫn không lấy đó làm bài học tiếp tục phạm tội, bị cáo biết hành vi trộm cắp là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi ích cá nhân bị cáo đã cố tình vi phạm pháp luật, lợi dụng sơ hở của người bị hại để lấy trộm tài sản nhằm mang bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân, là khách thể bảo vệ của pháp luật hình sự và gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người tốt và nhằm để răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu chứng cứ và lời khai tại phiên tòa của bị cáo cho thấy bị cáo không có thu nhập và không có tài sản nào khác. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về vật chứng:
- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone7 Plus, số Imei: 355345080275472, và 01 chiếc ví da màu đen bên trong có 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho anh Ngô Trí C.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Chiến đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.
[10] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Đối với đối tượng tên D (chưa rõ họ, địa chỉ) đã bỏ chạy thoát, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.
[11] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. B tại phiên tòa, xét thấy tương đối phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố: Bò caùo Lê Ngọc L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xöû phaït: Bò caùo Lê Ngọc L mức án 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2019.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án 488/2019/HS-ST ngày 18/10/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 488/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về