Bản án 485/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 485/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 535/2019/TLST-HS ngày 01/10/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5585/2019/QĐXXST-HS ngày 12/11/2019, đối với các bị cáo:

1. Lu Quốc C1, sinh ngày 08/8/1972, tại thành phố H; Nơi cư trú: 68A đường PT, phường B, quận M, thành phố H; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 3/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: không; Con ông Lu Quang T, sinh năm 1940 và bà Từ Tô N, sinh năm 1945; Có vợ tên Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1973 và 02 con (con lớn sinh năm 1999 và con nhỏ sinh năm 2005); Tiền án: không; Tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 08/5/2019 (có mặt).

2. Đoàn Văn C2, sinh ngày 15/8/1988, tại thành phố H; Nơi cư trú: 28/9/15 đường L, phường N, quận T, thành phố H; Chỗ ở: 541/19/4 tỉnh lộ A, phường Đ, quận B, thành phố H; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 3/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đoàn Văn S (chết) và bà Nguyễn Thị Lệ Q (sinh năm 1965); Chưa có vợ, con; Tiền án: không; Tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 08/5/2019 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Lu Quốc C1: Ông Trần Ngọc H1 - Luật sư của Công ty Luật TNHH Đ.V thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 22 giờ 30 phút ngày 08/5/2019, tại trước nhà số 673/2/1/10 tỉnh lộ A, phường Đ, quận B, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận B, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang Đoàn Văn C2 có hành vi cất giữ chất ma túy để bán cho người khác, vật chứng thu giữ: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 9,9480 gam, loại Methamphetamine, theo Kết luận giám định số 1053/KLGĐ-H ngày 17/5/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Đoàn Văn C2 khai số ma túy trên mua của Lu Quốc C1 đem về bán lại.

Mở rộng điều tra, lúc 22 giờ 45 phút cùng ngày 08/5/2019, tại tiệm game bắn cá HK, số 307 đường B, phường T, quận S, cơ quan Công an bắt quả tang Lu Quốc C1 có hành vi cất giấu chất ma túy để bán, thu giữ trong bóp da màu nâu để trên nền nhà ngay vị trí Lu Quốc C1 đang ngồi, bên trong có 06 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định 05 gói có khối lượng 30,3310 gam loại Methamphetamine và 01 gói có khối lượng 24,5340 gam loại Ketamine, theo Kết luận giám định số 1055/KLGĐ-H ngày 17/5/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra, Lu Quốc C1 khai nhận: Lu Quốc C1 đã 03 lần mua ma túy của đối tượng tên T1 (không rõ lai lịch) tại một tiệm game bắn cá trên đường N, quận H để bán lại, cụ thể:

Lần thứ 1: Khoảng ngày 15/4/2019, Lu Quốc C1 mua của T1 25 gam ma túy loại Ketamine giá 9.500.000 đồng, cất giữ trong bóp da để bán.

Lần thứ 2: Khoảng ngày 25/4/2019, Lu Quốc C1 mua của T1 25 gam ma túy đá (Methamphetamine) giá 9.500.000 đồng gồm 03 gói loại 5 gam và 01 gói loại 10 gam. Lu Quốc C1 lấy một ít ma túy ra sử dụng. Sau đó, Lu Quốc C1 mang về tiệm game bắn cá HK bán cho Đoàn Văn C2 02 lần, lần đầu 01 gói 10 gam giá 4.200.000 đồng, lần thứ hai 01 gói 5 gam giá 2.200.000 đồng. Số ma túy còn lại Lu Quốc C1 để trong bóp da giấu trong người.

Lần thứ 3: Khoảng 17 giờ ngày 08/5/2019 Lu Quốc C1 mua của T1 25 gam ma túy đá giá 9.500.000 đồng, gồm 03 gói loại 5 gam và 01 gói loại 10 gam. Số ma túy này Lu Quốc C1 đem về tiệm game bắn cá HK, lấy ra một ít để sử dụng, rồi bỏ vào bóp da cất giữ cùng số ma túy mua trước đó còn lại. Khoảng 18 giờ cùng ngày 08/5/2019, tại tiệm game bắn cá HK, Lu Quốc C1 bán cho Đoàn Văn C2 10 gam ma túy đá giá 4.200.000 đồng. Đến lúc 22 giờ 45 phút bị cơ quan Công an kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy của Lu Quốc C1 như đã nêu trên.

Đoàn Văn C2 khai nhận phù hợp Lu Quốc C1: Đoàn Văn C2 đã 03 lần mua ma túy của Lu Quốc C1 tại tiệm game bắn cá HK:

Lần thứ 1: Đoàn Văn C2 mua của Lu Quốc C1 10 gam ma túy đá giá 4.200.000 đồng, sau đó mang đến khu vực tỉnh lộ A, phường Đ, quận B bán cho Nguyễn Tài Đ, sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú: ấp B, xã BĐ, huyện L, tỉnh A, với giá 4.500.000 đồng, Đoàn Văn C2 hưởng lợi 300.000 đồng.

Lần thứ 2: Đoàn Văn C2 mua của Lu Quốc C1 5 gam ma túy đá giá 2.200.000 đồng, sau đó mang đến khu vực tỉnh lộ A bán cho Nguyễn Tài Đ với giá 2.400.000 đồng, Đoàn Văn C2 hưởng lợi 200.000 đồng.

Lần thứ 3: Đoàn Văn C2 mua của Lu Quốc C1 10 gam ma túy đá giá 4.200.000 đồng, sau đó mang đi bán cho Nguyễn Tài Đ nhưng chưa bán được, bị bắt quả tang như đã nêu trên.

Nguyễn Tài Đ khai phù hợp với Đoàn Văn C2: Nguyễn Tài Đ đã 02 lần mua ma túy của Đoàn Văn C2 tại nơi ở của Nguyễn Tài Đ tại số 673/2/1/10 tỉnh lộ A, phường Đ, quận B. Lần 1 vào ngày 04/5/2019, Đoàn Văn C2 bán cho Nguyễn Tài Đ 10 gam ma túy đá với giá 4.500.000 đồng; lần 2 vào ngày 06/5/2019, Đoàn Văn C2 bán cho Nguyễn Tài Đ 5 gam ma túy đá với giá 2.400.000 đồng. Số ma túy mua của Đoàn Văn C2, Nguyễn Tài Đ đã sử dụng hết. Đến ngày 08/5/2019, Nguyễn Tài Đ hỏi mua của Đoàn Văn C2 10 gam ma túy đá nhưng chưa mua được, bị Công an quận B bắt giữ trong một vụ án khác.

Tại cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Lu Quốc C1, Đoàn Văn C2 đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của Lu Quốc C1 và Đoàn Văn C2 phù hợp nhau, phù hợp lời khai của Nguyễn Tài Đ, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu Cơ quan Điều tra thu thập được trong vụ án.

* Vật chứng vụ án:

1. Thu giữ của Lu Quốc C1:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1055/19, bên ngoài có chữ ký ghi tên giám định viên Nguyễn Mạnh C3, chữ ký của cán bộ điều tra Vũ Đình H2, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động Nokia cũ (màu trắng): Lu Quốc C1 khai sử dụng liên lạc mua bán ma túy.

- 01 bóp da màu nâu có khóa kéo: Lu Quốc C1 khai dùng để cất giấu ma túy.

- 01 Ipad mini, Lu Quốc C1 khai là tài sản riêng.

2. Thu giữ của Đoàn Văn C2:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1053/19, bên ngoài có chữ ký ghi tên giám định viên Nguyễn Mạnh C3, chữ ký của cán bộ điều tra Vũ Đình H2, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động Iphone, số thuê bao 070343967, số imei: ...50461: Đoàn Văn C2 khai sử dụng liên lạc mua bán ma túy.

- 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0029276 mang tên Lê Văn H3.

- 01 chiếc xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu: không xác định, loại xe: 02 bánh, số loại: DAMSEL, biển số 68S5-9158, số khung: không có, số máy: DH-100E- 1822091 (ghi theo số cà), Đoàn Văn C2 khai mua xe của ông Lê Văn H3. Kết quả xác minh xe do ông Lê Văn H3, sinh năm 1974, địa chỉ: ấp T, xã TĐ, huyện TH, tỉnh K đứng tên chủ sở hữu. Ông Lê Văn H3 đã bán chiếc xe trên cho người khác, không rõ lai lịch, địa chỉ, không làm thủ tục sang tên. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng báo tìm chủ sở hữu, nhưng chưa có người đến liên hệ giải quyết.

Tại bản Cáo trạng số 381/CT-VKS-P1 ngày 20/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lu Quốc C1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và bị cáo Đoàn Văn C2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị cáo Lu Quốc C1, bị cáo Đoàn Văn C2 đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lu Quốc C1 15 năm đến 16 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng 15.000.000 đồng.

- Áp dụng các điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đoàn Văn C2 08 đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo nộp phạt số tiền 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Lu Quốc C1 trình bày: Đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo Lu Quốc C1. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo Lu Quốc C1 có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là dân tộc Hoa, không có việc làm ổn định, lại nghiện ma tuý nên bị cáo mới mua ma tuý để bán lại, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

Ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát: Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng nên Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội.

Trong lời nói sau cùng: Các bị cáo đã ăn năn, hối cải về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều và tại phiên tòa, bị cáo Lu Quốc C1 và bị cáo Đoàn Văn C2 không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Lu Quốc C1 và bị cáo Đoàn Văn C2 tại phiên tòa cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Lúc 22 giờ 30 phút ngày 08/5/2019, tại trước nhà số 673/2/1/10 tỉnh lộ A, phường Đ, quận B, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận B bắt quả tang Đoàn Văn C2 có hành vi cất giữ chất ma túy để bán cho người khác, thu giữ được 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 9,9480 gam, loại Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 1053/KLGĐ-H ngày 17/5/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh). Đoàn Văn C2 khai mua số ma túy trên của Lu Quốc C1 đem về bán lại.

Mở rộng điều tra, lúc 22 giờ 45 phút cùng ngày 08/5/2019, tại tiệm game bắn cá HK, số 307 đường B, phường T, quận S, cơ quan Công an bắt quả tang Lu Quốc C1 có hành vi cất giấu chất ma túy để bán, thu giữ trong bóp da màu nâu để trên nền nhà ngay vị trí Lu Quốc C1 đang ngồi, bên trong có 06 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định 05 gói có khối lượng 30,3310 gam loại Methamphetamine và 01 gói có khối lượng 24,5340 gam loại Ketamine (theo Kết luận giám định số 1055/KLGĐ-H ngày 17/5/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh). Quá trình điều tra: Lời khai của bị cáo Lu Quốc C1, bị cáo Đoàn Văn C2 và đối tượng Nguyễn Tài Đ phù hợp về việc mua bán ma tuý.

Hành vi của bị cáo Lu Quốc C1 đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng khối lượng ma túy ở thể rắn là 79,8130 gam, loại Methamphetamine và Ketamine (gồm 30,3310 gam loại Methamphetamine, 24,5340 gam loại Ketamine thu giữ được khi bị bắt quả tang và 24,9480 gam loại Methamphetamine đã bán cho Đoàn Văn C2), tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo Đoàn Văn C2 đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Đoàn Văn C2 đã thực hiện hành vi mua bán trái phép ma túy với bị cáo Lu Quốc C1, sau đó tiếp tục thực hiện hành vi này với đối tượng Nguyễn Tài Đ. Do đó, bị cáo Đoàn Văn C2 phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng khối lượng ma túy ở thể rắn là 24,9480 gam loại Methamphetamine (gồm 15 gam Methamphetamine đã mua của Lu Quốc C1 bán lại cho Nguyễn Tài Đ và 9,9480 gam Methamphetamine thu giữ được khi bị bắt quả tang), tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo Lu Quốc C1 là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Đoàn Văn C2 là rất nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt, nhưng vì động cơ tư lợi và thỏa mãn nhu cầu cá nhân các bị cáo đã bất chấp hậu quả, nên cần có mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo nhằm cải tạo giáo dục riêng đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. Đồng thời, cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, phạt bị cáo Lu Quốc C1 số tiền 5.000.000 đồng nộp sung công quỹ Nhà nước, phạt bị cáo Đoàn Văn C2 số tiền 5.000.000 đồng nộp sung công quỹ Nhà nước.

Về các ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Lu Quốc C1 là không có cơ sở, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận.

Đối với đối tượng tên T1 là người bán ma túy cho bị cáo Lu Quốc C1, do Lu Quốc C1 khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

Đối với Nguyễn Tài Đ khai 02 lần mua ma túy của Đoàn Văn C2 về đã sử dụng hết, không thu được vật chứng nên cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh không có căn cứ để xử lý. Hiện Nguyễn Tài Đ đang bị Công an quận B khởi tố điều tra về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong một vụ án khác.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo Lu Quốc C1 có thời gian phục vụ trong quân đội nên được xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đối với bị cáo Đoàn Văn C2 còn được xem xét áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 do quá trình điều tra bị cáo đã tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm.

[4] Về lượng hình: Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải xử phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 02 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1053/19 và 1055/19, bên ngoài có chữ ký ghi tên giám định viên Nguyễn Mạnh C3, chữ ký của cán bộ điều tra Vũ Đình H2, bên trong là ma túy còn lại sau giám định, 01 bóp da màu nâu có khóa kéo thu giữ của bị cáo Lu Quốc C1, là vật cấm lưu hành, có liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia cũ (màu trắng) thu giữ của bị cáo Lu Quốc C1 và 01 điện thoại di động Iphone, số thuê bao 070343967, số imei:

...50461 thu giữ của bị cáo Đoàn Văn C2, là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 Ipad mini (trầy xước) thu giữ của bị cáo Lu Quốc C1 không liên quan đến vụ án nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

- Đối với 01 chiếc xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu: không xác định, loại xe: 02 bánh, số loại: DAMSEL, biển số 68S5-9158, số khung: không có, số máy: DH-100E-1822091 (ghi theo số cà) và 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0029276 mang tên Lê Văn H3 thu giữ của bị cáo Đoàn Văn C2. Đoàn Văn C2 khai mua xe của ông Lê Văn H3. Kết quả xác minh xe do ông Lê Văn H3 (sinh năm 1974, địa chỉ: ấp T, xã TĐ, huyện TH, tỉnh K) đứng tên chủ sở hữu. Ông Lê Văn H3 đã bán chiếc xe trên cho người khác (không rõ lai lịch, địa chỉ, không làm thủ tục sang tên). Do chưa xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nên cần đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với chiếc xe trên, hết thời hạn thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lu Quốc C1 15 (mười lăm) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 08/5/2019.

Buộc bị cáo Lu Quốc C1 nộp phạt số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà Nước.

- Áp dụng các điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đoàn Văn C2 07 (bảy) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 08/5/2019.

Buộc bị cáo Đoàn Văn C2 nộp phạt số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà Nước.

- Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 02 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1053/19 và 1055/19, bên ngoài có chữ ký ghi tên giám định viên Nguyễn Mạnh C3, chữ ký của cán bộ điều tra Vũ Đình H2, bên trong là ma túy còn lại sau giám định, 01 bóp da màu nâu có khóa kéo thu giữ của bị cáo Lu Quốc C1.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia cũ (màu trắng) thu giữ của bị cáo Lu Quốc C1 và 01 điện thoại di động Iphone, số thuê bao 070343967, số imei: ...50461 thu giữ của bị cáo Đoàn Văn C2.

Tiếp tục tạm giữ 01 Ipad mini (trầy xước) thu giữ của bị cáo Lu Quốc C1 để đảm bảo thi hành án.

Giao Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng theo quy định của pháp luật để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp 01 chiếc xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu: không xác định, loại xe: 02 bánh, số loại: DAMSEL, biển số 68S5-9158, số khung: không có, số máy: DH-100E-1822091 (ghi theo số cà), kèm theo 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0029276 mang tên Lê Văn H3. Hết thời hạn nêu trên, nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu xe sung công quỹ nhà nước.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 466/19 ngày 24/9/2019 của Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Bị cáo Lu Quốc C1 phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Đoàn Văn C2 phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 485/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:485/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về