Bản án 483/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 483/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN, LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 26 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 454/2020/HSST ngày 30 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 489/2020/QĐXXST-HS ngày 13/11/2020 đối với bị cáo:

Phạm Hữu P, sinh năm 1996 tại tỉnh Tiền Giang; thường trú: Ấp M xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang; tạm trú: 18/10 khu phố T, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Phạm Văn M, sinh năm 1974 và con bà Bùi Thị T, sinh năm 1977, bị cáo có 02 anh em; tiền sự, tiền án:

Không có; bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam từ ngày 08/7/2020 cho đến nay, có mặt.

Bị hại:

1. Anh Nguyễn Hồng Q, sinh năm 2000; thường trú: Ấp 4B xã M, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

2. Chị Lương Thị Mai H, sinh năm 1985; thường trú: 12.33 Chung cư L, khu phố 3 phường L, quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

3. Anh Vũ Văn L, sinh năm 1983; thường trú: 401/5 khu phố T, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

4. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1955; thường trú: Thôn T xã S, huyện K, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Bùi Thị T1, sinh năm 1977; thường trú: 18/10 khu phố T, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1973; thường trú: 22/9 khu phố Đ2, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Minh H1, sinh năm 1986; thường trú: 10B/6 khu phố Đ, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

4. Anh Lê Văn N, sinh năm 1980; thường trú: 843 đường DT743 khu phố T, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lần 1: Bị cáo Phạm Hữu P làm việc tại nhà nghỉ A địa chỉ khu phố Đ 2, phường Dĩ An, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, khoảng 4 giờ 00 phút ngày 12/01/2020, P đi xuống quầy lễ tân nhà nghỉ lấy 1.300.000 đồng trong hộc tủ bàn lễ tân của chị Lương Thị Mai H, lấy 01 xe mô tô Exciter biển số 59Y3-483.02 của anh Nguyễn Hồng Q, sau đó điều khiển xe đến tiệm sửa xe “5 Từ” của anh Nguyễn Đức T địa chỉ 6/10 khu phố T, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương sơn lại màu xe từ đen xám thành đỏ đen và tháo biển số xe của anh Q ra để thay thế bằng biển số xe 61D1 – 421.90 (biển số xe Wave của bà Bùi Thị T1 (mẹ P) biển số xe 59Y3-483.02 P bỏ lại tại tiệm sửa xe. P lên mạng xã hội Facebook đặt mua 01 giấy đăng ký xe mô tô Exciter biển số 61D1 – 421.90 mang tên Phạm Hữu P. Khoảng giữa tháng 06/2020, P mang xe mô tô của anh Q và giấy đăng ký xe đã mua đến gặp anh Nguyễn Văn T nói “xe của P giờ cần tiền nên cầm với giá 7.000.000 đồng”.

Lần 2: Khoảng 20 giờ ngày 29/6/2020, P đi bộ đến quán cà phê Điểm Hẹn địa chỉ khu phố T, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương uống cà phê, khi uống thấy chủ quán anh Vũ Văn L bỏ 01 điện thoại, 01 cái bóp trong quần kaki màu xám treo trong phòng, khoảng 03 giờ ngày 30/6/2020, P đi bộ đến quán cà phê Điểm hẹn trèo lên cửa phía trước vào trong quán lấy 01 bóp bên trong có 3.000.000 đồng, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe B2, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 61D2-06732, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 61D1-888.29 tên Vũ Văn L, 01 điện thoại di động Samsung A8+ màu đen bên trong có sim số 0382.180.357. P đến thuê nhà nghỉ Sa Kê để ngủ đến khoảng 11 giờ cùng ngày 30/6/2020, P cầm điện thoại Samsung A8 + của anh L đến cửa hàng điện thoại di động “Hùng Phát 79” có địa chỉ 743 đường DT743, khu phố T, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương bán cho anh Nguyễn Minh H được 900.000 đồng. Riêng sim số 0382.180.357 P lấy gắn vào điện thoại Nokia 1203 màu đen của P để sử dụng, khi sử dụng thấy nhiều cuộc gọi đến có lưu tên “vợ yêu” (vợ anh L) và tin nhắn có nội dung “cho xin lại giấy tờ” P không trả lời mà tắt máy. khoảng 15 giờ cùng ngày, P mang giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe hạng B2 của anh L đến cơ sở cầm đồ Bảo Long do anh Lê Văn N làm chủ cầm lấy 700.000 đồng. Sau đó, P nhắn tin cho vợ anh L địa chỉ tiệm cầm đồ Bảo Long để anh L đến chuộc lại giấy tờ. Khi nhắn tin xong, P đập bỏ điện thoại Nokia 1203 và vứt sim 038.218.0357. Đối với 02 giấy chứng nhận đăng ký xe P cất bỏ vào bóp của mình rồi đón xe khách về quê ngoại ở Chợ Gạo, Tiền Giang.

Lần 3: Khoảng 8 giờ ngày 08/7/2020, P đón xe khách từ Tiền Giang về nhà, do nhà khóa cửa P đến nhà nghỉ Sa Kê địa chỉ thuộc khu phố T, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương thuê phòng 303 ngủ, khoảng 15 giờ cùng ngày P xuống quầy tiếp tân mua nước uống gặp bà Nguyễn Thị T là quản lý đang ngủ ở trước nhà xe, phòng lễ tân đang mở. P đi đến bàn lễ tân kéo hộc tủ lấy 1.800.000 đồng đi lên phòng 303. Lúc này bà T phát hiện mất tiền gọi P xuống kiểm tra phát hiện trong túi quần của P có 1.800.000 đồng nên báo Công an phường Dĩ An đến làm việc. Lúc này P khai nhận việc chiếm đoạt tiền của bà T và các lần chiếm đoạt tài sản trước.

Vật chứng thu giữ: 1.800.000 đồng; 01 điện thoại di động Samsung A8+ màu đen; 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 61 D2-067.32, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 61 D1-88829 tất cả mang tên Vũ Văn L.

+ 01 xe mô tô Exciter màu đỏ đen BS: 61D1 – 42190 số khung RLCE55P10CY194451; số máy: 55P1194468; 01 biển số xe 59Y3-483.02;

01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô biển số 61D1 – 42190 mang tên Phạm Hữu P.

Kết luận định giá tài sản số 120/KLĐG –HĐĐGTS trong tố tụng hình sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận:

+ 01 xe mô tô Exciter màu đỏ đen biển số 59Y3-483.02 số khung RLCE55P10CY194451; số máy 55P1194468 trị giá 12.000.000 đồng.

+ 01 điện thoại di động Samsung A8+ màu đen trị giá 3.500.000 đồng.

Kết luận giám định số 377/GĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương ngày 17/09/2020 kết luận:

- Một giấy “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” số 034778, mang tên “Phạm Hữu Phong” địa chỉ số: 18/10 khu phố Đông Tân, phường Dĩ An, TP.Dĩ An, tỉnh Bình Dương đề ngày 24/05/2014 9 (ký hiệu A) là giả.

- Phôi và hình dấu tròn có nội dung “* C.H.X.H CHỦ NGHĨA VIỆT NAM * CÔNG AN TỈNH BÌNH DƯƠNG” là giả bằng phương pháp in phun màu điện tử.

- Chữ ký mang tên “Võ Văn Lớp” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với chử ký của Võ Văn Lớp trên tài liệu mẫu (ký hiệu M) không phải do cùng một người ký ra.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

+ Anh Nguyễn Hồng Q đã nhận lại xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đỏ đen biển số 59Y3 - 483.02; chị Nguyễn Thị T đã nhận lại số tiền 1.800.000 đồng; chị Lương Thị Mai H đã nhận lại số tiền 1.300.000 đồng; chị Bùi Thị T1 (mẹ bị cáo P) đã bồi thường số tiền 3.000.000 đồng cho anh Vũ Văn L, anh L đã nhận lại 01 điện thoại di động Samsung A8+ ; 01 bóp da màu nâu;

01 giấy chứng minh nhân dân; 01 giấy phép lái xe; 02 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 61 D2-067.32 và 61 D1-88829 + Chị Bùi Thị T bồi thường số tiền 7.000.000 đồng cho anh Nguyễn Văn T2, số tiền 900.000 đồng cho anh Nguyễn Minh H1, số tiền 700.000 đồng cho anh Lê Văn N.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường gì khác Đối với anh Nguyễn Đức T khi nhận cầm xe mô tô Exciter biển số 59Y3 - 483.02 cùng giấy tờ xe của P, anh T không biết xe trên P chiếm đoạt. Chị Bùi Thị T1 không biết việc P lấy sử dụng biển số xe 61D1 – 421.90 vào việc phạm tội. Anh Nguyễn Minh H1, Lê Văn N không biết P chiếm đoạt tài sản của người khác rồi mang đến cầm và bán điện thoại. Công an Thành phố Dĩ An không xử lý Cáo trạng số 484/CT – VKS ngày 29 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Hữu P về các tội “Trộm cắp tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 174 và điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

+ Khoản 1 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo P từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”

+ Khoản 1 Điều 174; điểm b, r, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo P từ 07 tháng đến 10 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

+ Điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo P từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 03 tội buộc bị cáo P phải chấp hành hình phạt chung từ 03 năm 07 tháng tù đến 04 năm 10 tháng tù.

Bị cáo P không tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Rất ân hận việc mình làm, xin được giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất để sớm về hòa nhập cộng đồng làm người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Phạm Hữu P: Lời khai bị hại, kết luận định giá tài sản, kết luận giám định, biên bản lấy lời khai bị cáo Phong thể hiện ngày 12/01/2020 bị cáo lén lút chiếm đoạt 1.300.000 đồng của bà Lương Thị Mai H, chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Exciter, biển số 59Y3- 483.02 trị giá 12.000.000 đồng của anh Nguyễn Hồng Q. Ngày 30/6/2020 chiếm đoạt 3.000.000 đồng, 01 điện thoại di động Samsung A8 + trị giá 3.500.000 đồng cùng giấy tờ của anh Vũ Văn L, giấy tờ của anh L bị cáo P mang đi cầm đồ để lấy 700.000 đồng. Ngày 08/7/2020 bị cáo P chiếm đoạt 1.800.000 đồng của bà Nguyễn Thị T. P lên mạng Facebook đặt mua 01 giấy chứng nhận xe mô tô nhãn hiệu Exiter, biển số 61D1-421.90 sau đó mang giấy tờ cùng xe đã chiếm đoạt của anh Nguyễn Hồng Q đến gặp anh Nguyễn Văn T1 nói là xe của P để cầm với số tiền 7.000.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của bị cáo P là hành vi của tội “Trộm cắp tài sản”, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 174 và điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bản cáo trạng số 484 ngày 29/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội tại phiên tòa đối với bị cáo P là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Đối với tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo phạm tội 02 lần trở lên được quy định điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và được xin giảm nhẹ mức hình phạt. Bị cáo tự thú các hành vi phạm tội của mình trước ngày bị bắt 08/7/2020, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phần lớn tài sản đã được thu hồi trả bị hại. Tình tiết trên được quy định tại điểm b, r, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo P có nhân thân tốt thể hiện không có tiền án, tiền sự.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo P phạm liền lúc 03 tội được quy định trong Bộ luật hình sự, trong đó có 01 tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Ngoài ra vì vụ lợi cho bản thân bị cáo đặt mua tài liệu giả để sử dụng trong việc phạm tội đã làm cho các tài liệu của người có chức vụ quyền hạn bị sai lệch, không đúng với thực tế. Hành vi trên xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, được bồi thường và không có yêu cầu bồi thường gì khác. Do vậy, Hội đồng xét xử không xét.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” đối với bị cáo P phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận. Riêng mức hình phạt đối với tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” có phần nghiêm khắc. Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo P mức hình phạt thấp hơn so với mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[6] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo P phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Hữu P phạm các tội “Trộm cắp tài sản”, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Hữu P 10 (mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Hữu P 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Hữu P 02 (hai) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo Phạm Hữu P phải chấp hành hình phạt chung của ba tội là 03 (ba) năm 04 (bốn) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 08/7/2020.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Phạm Hữu P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 483/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:483/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về