TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 48/2021/HSST NGÀY 18/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 05 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2021/HSST, ngày 07 tháng 04 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:46/2021/QĐXXST –HS, ngày 4 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:
Phùng Mỳ M - Tên gọi khác: không; Sinh năm 1990; sinh tại: xã P, huyện M, tỉnh Lai Châu. Nơi thường trú: bản X, xã P, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: trồng trọt; Đoàn, Đảng: không; Trình độ học vấn: không; Dân tộc: La Hủ; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Phùng Xa Ch – đã chết; Con bà: Giàng Chùy P - Sinh năm: 1951; Bị cáo có chồng: Ly Mé C – sinh năm:
1986, Bị cáo có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/12/2020 đến ngày 26/12/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú có mặt tại phiên tòa - Có mặt tại phiên tòa.
* Người phiên dịch cho bị cáo là anh: Ly Pó X - sinh năm 2000; trú tại khu 7, thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu - Có mặt.
* Người làm chứng: Pờ Mó H - sinh năm: 2002; trú tại bản X, P, huyện M, tỉnh Lai Châu - Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ ngày 17/12/2020, Phùng Mỳ M đi sang nhà của Pờ Mó H là cháu của M, cùng bản với M, với mục đích thuê H chở đi mua ma túy để sử dụng, vì không muốn cho H biết mục đích của M đi mua ma túy, nên M đã nói với H là " cháu chở cô xuống huyện mua thuốc, con cô bị ốm", nói xong M lấy ra 200.000đồng đưa cho H đổ xăng xe, H đồng ý lấy xe mô tô của H chở M đi. Khi H chở M đến ngã ba B, huyện M, tỉnh Lai Châu, M nói với H chở M lên bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu, nghe vậy H hỏi " trên đấy làm gì có thuốc mà mua" M đáp lại "cháu chở cô lên đi, gần đây thôi, không xa lắm đâu", nghe M nói vậy H tiếp tục chở M đi. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, H và M đến bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu, lúc này M bảo H dừng xe lại, đứng đợi M ở đầu bản, còn M một mình đi bộ vào trong bản, M đi đến một ngôi nhà của người dân trong bản, khi vào nhà, M gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, khoảng 30 tuổi, qua trao đổi về việc mua bán ma túy, M đã mua được của người phụ nữ này 02 gói Heroine với số tiền là 850.000đồng. Mua được Heroine M cất giấu vào trong túi áo bên phải M đang mặc rồi đi ra chỗ H chờ, bảo H đưa về nhà, M không nói cho H biết việc M mua được Heroine. Đến khoảng 11 giờ 20 H chở M đến khu vực bản N, xã B, huyện M, tỉnh Lai Châu, thì bị Công an xã Bum Nưa đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe để kiểm tra, M lấy 01 gói Heroine trong túi áo của M ra thả xuống đường ngay vị trí dừng xe, tổ công tác yêu cầu M nhặt lên để kiểm tra, qua kiểm tra đã phát hiện bên trong có chứa chất bột khô, vón cục, màu trắng, lúc này M lấy trong túi áo ra 01 gói bột khô, vón cục, màu trắng giao nộp cho tổ công tác, M khai nhận 02 gói chất bột khô, vón cục, màu trắng là Heroine của M, M mua về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản và niêm phong vật chứng theo quy định.
Qua xác định khối lượng và giám định chất ma túy, đã xác định được 02 gói bột khô, vón cục, màu trắng thu giữ của Phùng Mỳ M có tổng khối lượng là 2,25 gam, tại bản Kết luận giám định số 14/GĐ-KTHS, ngày 24/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận, 02 mẫu bột khô vón cục màu trắng thu giữ của Phùng Mỳ M gửi đến giám định đều là ma túy, loại Heroine.
Tại Cáo trạng số: 17/CT- VKS– MT, ngày 05 tháng 04 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè đã truy tố bị cáo Phùng Mỳ M về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Mỳ M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy " .
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38, Điều 50; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Phùng Mỳ M từ 01 năm 2 tháng tù đến 01 năm 8 tháng tù. Về hình phạt bổ sung đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn.
Về vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy gồm: 1,41 gam Heroine còn lại sau khi trích giám định và 04 ( bốn) mảnh còn lại sau khi cân xác định vật chứng.
Về án phí miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Tại phiên tòa bị cáo Phùng Mỳ M khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, lời khai của bị cáo là thống nhất, phù hợp với các lời khai tại cơ quan Điều tra; bị cáo nhất trí luận tội và đề nghị của kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận, không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu và Điều tra viên, Kiểm sát viên được phân công điều tra, truy tố, trong quá trình thực hiện đã tuân thủ đúng theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[ 2 ] Về hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Do nghiện chất ma túy, vào ngày 17/12/2020, Phùng Mỳ M, thuê cháu là Pờ Mó H chở M đi đến bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu để tìm mua Heroine về để sử dụng, vì không muốn cho H biết mục đích đi mua Heroine của M nên, M đã nói dối với H là " chở M đi mua thuốc về cho con, con bị ốm". Khi H chở M đến bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu, một mình M đi vào trong bản tìm mua Heroine, vào trong bản M gặp và mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 30 tuổi 02 gói Heroine với số tiền là 850.000đồng. Sau khi mua được Heroine M cất giấu vào trong túi áo M đang mặc, không cho H biết rồi bảo H chở M đi về, khi M và H đi đến khu vực bản N, xã B, huyện M, tỉnh Lai Châu thì bị tổ công tác công an xã Bum Nưa, phát hiện, bắt quả tang thu giữ của M 02 gói Heroine có tổng khối lượng là 2,25 gam.
Như vậy, căn cứ vào khối lượng và mục đích mua Heroine của Phùng Mỳ M để sử dụng, khẳng định hành vi của Phùng Mỳ M đã đủ yếu tố cấu thành tội" Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 1 Điều 249 quy định tàng trữ" Heroine.... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam". Khoản 1 Điều 249 BLHS có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Do vậy, Cáo trạng số 17/CT - VKS - MT, ngày 05 tháng 04 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè truy tố đối với Phùng Mỳ M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”' theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[ 3 ] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ Heroine để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhưng do nghiện chất ma túy, nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế bản thân và gia đình bị cáo.
[ 4 ] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân, bị cáo Phùng Mỳ M có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo là người nghiện chất ma túy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo Phùng Mỳ M luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số, không có trình độ học vấn, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn có những hạn chế nhất định, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[ 5 ] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa, xét thấy, bị cáo Phùng Mỳ M nghề nghiệp trồng trọt, nghiện chất ma túy, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có điều kiện thi hành, Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Trong vụ án này, theo lời khai của Phùng Mỳ M, số Heroine M có được là do M mua của một người phụ nữ dân tộc Mông, khoảng 30 tuổi tại bản P, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu, nhưng M không biết rõ lai lịch của người này, nên không có cơ sở để điều tra xử lý được đối với người này. Đối với Pờ Mó H là người chở M đi, nhưng khi chở M đi và khi M mua được Heroine, H hoàn toàn không biết, nên không xử lý trách nhiệm của H là đúng quy định pháp luật.
[ 6 ] Về vật chứng hiện đang thu giữ: Đối với 1,41 gam Heroine còn lại sau khi trích giám định và 04 ( bốn) mảnh còn lại sau khi cân xác định vật chứng, đây là chất cấm lưu hành và công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội cần phải tịch thu tiêu hủy.
[ 7 ] Về án phí hình sự sơ thẩm: Xét thấy bị cáo Phùng Mỳ M là người dân tộc thiểu số, có điều kiện kinh tế khó khăn, sống ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV, miễn án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng cho bị cáo.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử cần phải chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 50; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về án phí, lệ phí.
1. Tuyên bố bị cáo Phùng Mỳ M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Phùng Mỳ M 01( một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo tự nguyện đi chấp hành hoặc bị bắt đi thi hành, được khấu trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày, kể từ 13 giờ 40 phút ngày 17/12/2020 đến 13 giờ 40 phút ngày 26/12/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy gồm: 1,41 gam Heroine còn lại sau khi trích giám định và 04 ( bốn) mảnh còn lại sau khi cân xác định vật chứng.
Toàn bộ vật chứng trên hiện đang được thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường tè, tỉnh Lai Châu, theo biên bản giao nhận vật chứng số 41, ngày 15/04/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng cho bị cáo Phùng Mỳ M.
Án xử công khai, có mặt bị cáo, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu để xem xét theo thủ tục phúc thẩm./.
Bản án 48/2021/HSST ngày 18/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 48/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về