Bản án 48/2021/HS-ST ngày 14/05/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 14 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2021/TLST- HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lương Hữu K, sinh năm 1982 (Tên gọi khác: Không ) tại huyện B, tỉnh Hà Nam; Nơi cư trú: Số nhà 167, đường L, phố 2, phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lương Hữu T và bà Lương Thị B; Vợ: Lò Thị H và có 02 con (con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án số 567 HSST ngày 15/10/1999, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 20 tháng kể từ ngày tuyên án về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Bị cáo đã chấp hành xong.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

2. Bùi Văn H, sinh năm 1989 (Tên gọi khác: Không) tại xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn A, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Bùi Văn H và bà Bùi Thị B; Vợ: Thạch Thị Thu H và có 01 con (sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/02/2021 đến ngày 26/02/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

3. Đặng Quốc V, sinh năm 1975 (Tên gọi khác: Không) tại tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Phố N, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đặng Quốc H và bà Trần Thị H; Vợ: Vũ Thị Hương G và có 01 con (sinh năm 2000); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/02/2021 đến ngày 26/02/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

4. Nguyễn Văn C, sinh năm 1973 (Tên gọi khác: Không ) tại xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn T và bà Đặng Thị T; Vợ: Đinh Thị T và có 02 con (con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/02/2021 đến ngày 26/02/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

5. Quách Huỳnh L, sinh năm 1983 (Tên gọi khác: Không ) tại xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn P, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Quách Văn L và bà Trần Thị H; Vợ: Nguyễn Thị H và có 02 con (con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/02/2021 đến ngày 26/02/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

6. Nguyễn Văn V, sinh năm 1980 (Tên gọi khác: Không ) tại xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn P và bà Đinh Thị H; Vợ: Vũ Thị H và có 02 con (con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2008); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/02/2021 đến ngày 26/02/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

7. Trần Ngọc H, sinh năm 1991 (Tên gọi khác: Không ) tại xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Trần Văn L và bà Huỳnh Thị N; Vợ: Nguyễn Thị T và có 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/02/2021 đến ngày 26/02/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

- Người làm chứng:

Anh Bùi Văn H, sinh năm 1993 (Vắng mặt). Anh Lương Hữu M, sinh năm 1989 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 19/02/2021 Lương Hữu K và Đặng Quốc V đến nhà Bùi Văn H ngồi chơi uống nước và xem vườn hoa Phong Lan của nhà H. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày trong khi đang ngồi chơi K đã rủ H, V đánh bạc thì mọi người đồng ý. Trước khi vào đánh bạc Lương Hữu K, Đặng Quốc V, Bùi Văn H thống nhất đánh bạc bằng hình thức “Đánh ba cây” được thua bằng tiền với mức cá cược trong mỗi ván thấp nhất là 50.000đồng cao nhất là 500.000đồng. Lúc này Bùi Văn H đã lấy tại kệ tủ đặt tại phòng khách của gia đình 01 bộ bài 36 quân bài tú lơ khơ làm công cụ đánh bạc. Lương Hữu K, Đặng Quốc V, Bùi Văn H ngồi tại nền phòng khách nhà H bắt đầu ngồi đánh bạc từ khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày. Sau đó lần lượt Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Quách Huỳnh L và Trần Ngọc H đến nhà H chơi để xem vườn hoa Phong Lan thấy mọi người đang ngồi đánh bạc nên Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Quách Huỳnh L, Trần Ngọc H đã ngồi xuống cùng tham gia đánh bạc với Lương Hữu K, Đặng Quốc V, Bùi Văn H. Đến hồi 22 giờ 55 phút ngày 19/02/2021 trong khi Lương Hữu K, Đặng Quốc V, Bùi Văn H, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Quách Huỳnh L, Trần Ngọc H đang ngồi đánh bạc đã bị Tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Công an xã V, huyện N phát hiện bắt quả tang. Tổ công tác đã khống chế và bắt giữ được Bùi Văn H, Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H, Nguyễn Văn V, Đặng Quốc V. Còn Lương Hữu K lợi dụng sơ hở đã vứt lại toàn bộ số tiền mang theo sử dụng đánh bạc và bỏ chạy thoát. Tổ công tác đã thu giữ tại chiếu bạc số tiền 25.700.000đồng và 01 bộ bài 36 quân bài tú lơ khơ. Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ trong người của Bùi Văn H số tiền 11.300.000 đồng; thu của Đặng Quốc V số tiền 3.000.000 đồng; thu của Quách Huỳnh L số tiền 32.000.000 đồng; thu của Nguyễn Văn V số tiền 2.000.000 đồng; thu của Trần Ngọc H số tiền 4.000.000 đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã chứng minh số tiền Lương Hữu K, Bùi Văn H, Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H, Nguyễn Văn V, Đặng Quốc V sử dụng vào mục đích đánh bạc là 28.700.000đồng gồm: số tiền 25.700.000đồng thu giữ tại chiếu bạc và số tiền 3.000.000 đồng thu giữ trong người của Đặng Quốc V sử dụng vào mục đích đánh bạc.

Tại bản cáo trạng số 42/CT - VKSNQ - HS ngày 08/4/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố các bị cáo Lương Hữu K, Bùi Văn H, Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H, Nguyễn Văn V, Đặng Quốc V về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lương Hữu K, Bùi Văn H, Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H, Nguyễn Văn V, Đặng Quốc V phạm tội “Đánh bạc”. Đề nghị:

+ Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt:

- Bị cáo Lương Hữu K từ 18 đến 21 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 5% đến 7% thu nhập hàng tháng của bị cáo để sung quỹ Nhà nước. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Phạt bổ sung từ 10.000.000đồng đến 15.000.000đồng.

+ Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 36; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt:

- Bị cáo Bùi Văn H từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo được trừ 07 ngày tạm giữ bằng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Khấu trừ 5% đến 7% thu nhập hàng tháng của bị cáo để sung quỹ Nhà nước. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Phạt bổ sung từ 10.000.000đồng đến 15.000.000đồng.

+ Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 35; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt:

- Bị cáo Đặng Quốc Vinh từ 30.000.000đồng đến 33.000.000đồng.

+ Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 35; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt:

- Các bị cáo Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn V mỗi bị cáo từ 27.000.000đồng đến 30.000.000đồng.

- Các bị cáo Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H mỗi bị cáo từ 22.000.000đồng đến 25.000.000đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền dùng vào việc đánh bạc 28.700.000đồng.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài 36 quân bài tú lơ khơ.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi đánh bạc như bản cáo trạng đã nêu, nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử Điều tra viên, Kiểm sát viên đã ra các quyết định tố tụng; thực hiện đúng, đầy đủ các hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; các chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; người tham gia tố tụng cung cấp đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa các bị cáo khai và thừa nhận hành vi đánh bạc đúng như nội dung bản cáo trạng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ 21 giờ 30 phút đến 22 giờ 55 phút ngày 19/02/2021 tại phòng khách nhà Bùi Văn H ở thôn A, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình các bị cáo Lương Hữu K, Bùi Văn H, Đặng Quốc V, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Quách Huỳnh L, Trần Ngọc H đã đánh bạc bằng hình thức “Đánh ba cây” được thua bằng tiền với số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc là 28.700.000đồng.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ tài liệu có liên quan trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định hành vi sử dụng 01 bộ bài tú lơ khơ 36 quân và số tiền 28.700.000đồng làm công cụ đánh bạc bằng hình thức “Đánh ba cây” của các bị cáo Lương Hữu K, Bùi Văn H, Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H, Nguyễn Văn V, Đặng Quốc V là cố ý, có tính chất vụ lợi sát phạt nhau bằng tiền nhằm tạo ra thu nhập bất chính. Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự thì: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Hội đồng xét xử kết luận: Các bị cáo Lương Hữu K, Bùi Văn H, Đặng Quốc V, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Quách Huỳnh L, Trần Ngọc H phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo Bùi Văn H, Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H, Nguyễn Văn V, Đặng Quốc V là người có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo” và “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại các các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Đặng Quốc V có bố đẻ là Đặng Quốc H là người có công với Cách mạng được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lương Hữu K thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Hình phạt: Trong vụ án này, hành vi phạm tội của các bị cáo mặc dù không có tính chất tổ chức, hình thức phạm tội là đồng phạm giản đơn nhưng trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng bị cáo, cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy:

Đối với các bị cáo Lương Hữu K là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc nhằm tạo ra thu nhập bất chính bị pháp luật cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo Lương Hữu K là người khởi xướng việc đánh bạc và số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc nhiều nhất. Mặt khác, bị cáo là người có nhân thân xấu, khi bị công an phát hiện bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho cơ quan điều tra nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò thứ nhất trong vụ án này.

Đối với bị cáo Bùi Văn H khi bị cáo K rủ đánh bạc bị cáo cũng nhất trí và để cho các bị cáo khác đánh bạc ngay tại nhà mình. Bị cáo là người chuẩn bị công cụ phạm tội đồng thời cũng là người tham gia đánh bạc ngay từ đầu cho đến khi bị Công an phát hiện, bắt quả tang nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này với vai trò thứ hai.

Đối với bị cáo Đặng Quốc V là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc bằng hình thức “Đánh ba cây” sát phạt nhau bằng tiền nhằm tạo ra thu nhập bất chính của mình bị pháp luật cấm. Tuy không phải là người khởi xướng nhưng vì vụ lợi nên khi bị cáo K rủ đánh bạc bị cáo không từ chối mà đồng ý ngay và cùng tham gia một cách tích cực ngay từ đầu cho đến khi bị Công an phát hiện bắt quả tang. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò thứ ba trong vụ án này.

Đối với các bị cáo Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H khi thấy các bị cáo K, H, V đánh bạc các bị cáo không can ngăn mà cùng tham gia đánh bạc nhằm tạo ra thu nhập bất chính. Do vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò thứ tư trong vụ án này.

Xét bị cáo Lương Hữu K phạm tội ít nghiêm trọng, bị cáo Bùi Văn H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo có nơi cư trú ổn định rõ ràng; quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện. Do vậy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo là phù hợp. Giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục trong thời gian thi hành án. Khấu trừ mỗi tháng 5% thu nhập của các bị cáo trong thời gian chấp hành án và áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền để sung quỹ Nhà nước là phù hợp.

Xét các bị cáo Đặng Quốc V, Quách Huỳnh L, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Trần Ngọc H trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, không nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mà chỉ cần áp dụng hình thức phạt tiền là hình phạt chính cũng đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm chung.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 11.300.000 đồng thu của Bùi Văn H; số tiền 32.000.000 đồng thu của Quách Huỳnh L; số tiền 4.000.000 đồng thu của Trần Ngọc H; số tiền 2.000.000 đồng thu của Nguyễn Văn V. Quá trình điều tra đã chứng minh số tiền trên là tài sản hợp pháp của Bùi Văn H, Quách Huỳnh L, Trần Ngọc H, Nguyễn Văn V không sử dụng vào mục đích phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho các bị cáo H, L, H, V là phù hợp.

- Đối với số tiền 28.700.000đồng các bị cáo dùng để đánh bạc hiện đang gửi tại tài khoản Chi cục thi hành án dân sự huyện N cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp với khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 bộ bài 36 quân bài tú lơ khơ là công cụ, phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Lương Hữu K, Bùi Văn H, Đặng Quốc V, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Quách Huỳnh L, Trần Ngọc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lương Hữu K, Bùi Văn H, Đặng Quốc V, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Quách Huỳnh L, Trần Ngọc H phạm tội “Đánh bạc”.

1.1. Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt:

Bị cáo Lương Hữu K 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và Bản sao bản án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Khấu trừ mỗi tháng 05% thu nhập của bị cáo trong thời gian chấp hành án để sung quỹ Nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.0000đồng (Mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước .

1.2. Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 36; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt:

Bị cáo Bùi Văn H 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ 07 ngày tạm giữ bằng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và Bản sao bản án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Khấu trừ mỗi tháng 05% thu nhập của bị cáo trong thời gian chấp hành án để sung quỹ Nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000đồng (Mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước .

1.3. Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; Điều 35; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt:

Bị cáo Đặng Quốc V 30.000.000đồng (Ba mươi triệu đồng).

1.4. Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; Điều 35; Các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Văn V 30.000.000đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Bị cáo Quách Huỳnh L 30.000.000đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Bị cáo Nguyễn Văn C 27.000.000đồng (Hai mươi bẩy triệu đồng).

- Bị cáo Trần Ngọc H 27.0000.0000đồng (Hai mươi bẩy triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền dùng vào việc đánh bạc 28.700.000đồng (Hai mươi tám triệu bẩy trăm nghìn đồng) (Cụ thể theo giấy ủy nhiệm chi giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N).

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 36 quân.

(Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng Điều 6, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Lương Hữu K, Bùi Văn H, Đặng Quốc V, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn C, Quách Huỳnh L, Trần Ngọc H mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Án xử sơ thẩm công khai, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2021/HS-ST ngày 14/05/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:48/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về