Bản án 48/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 48/2020/HSST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 5 năm 2020 tại phòng xử án Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 29/2020/TLST-HS ngày 25/02/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T; giới tính: nam; sinh năm: 1969 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 234C X, Phường F, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; nghề nghiệp: xe ôm; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Văn N và bà Trần Thị V.

Tiền án: không; tiền sự: không

Tạm giam: 14/7/2019. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: bà Lê Thị Kim O; sinh năm: 1974; địa chỉ: 234C X, Phường F, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 45 phút ngày 13/7/2019, tại trước số nhà 1D Đ, Phường F, quận B, tổ tuần tra hỗn hợp Công an quận Bình Thạnh phát hiện Nguyễn Minh T đang điều khiển xe gắn máy biển số 51Y4 - 7402 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe đưa về trụ sở công an Phường 15 để kiểm tra. Qua kiểm tra, công an phát hiện tại móc baga xe máy trên có 01 túi nylon đựng 01 vỏ bao thuốc lá “Jet”, bên trong có 01 gói nylon chứa 15 viên nén màu xanh chuối có khắc chữ số “250”. Ngoài ra, còn phát hiện bên trong túi quần trước bên phải của T đang mặc có 01 bóp da màu nâu bên trong có 01 gói nylon chứa 05 viên nén màu tròn vàng. Công an Phường 15 lập biên bản phạm tội quả tang chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bình Thạnh lập hồ sơ xử lý.

Tại Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh, Nguyễn Minh T khai nhận hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như sau:

T làm nghề chạy xe ôm trong một lần giao cua, mật ong cho 01 người đàn ông tên X (không rõ lai lịch, địa chỉ) vào tháng 04/2019, X nói với T có bán ma túy và hỏi T có muốn kiếm thêm tiền thì giúp X đi giao ma túy cho khách của X. Do cần tiền nên T đồng ý giao ma túy giúp X. Từ đó đến nay, mỗi tuần T giao cho X khoảng 3-4 lần, mỗi lần X có trả T 100.000 - 200.000 đồng tiền công. T chỉ giao ma túy chứ không nhận tiền từ khách mà khách liên hệ với X để trả tiền.

Khoảng hơn 22 giờ ngày 13/7/2019, Thăng đang chờ khách tại khu vực bến xe miền Đông thì X đến bỏ vào trong túi nylon T đang treo trên baga xe máy của T 01 vỏ thuốc lá “Jet” bên trong chứa thuốc lắc và kêu giao cho 01 cặp nam, nữ ở quán bar Quận T. Sau khi giao xong sẽ trả cho T 200.000 đồng nhưng chưa kịp giao thì T bị công an bắt giữ như trên.

Căn cứ Kết luận giám định số 1443/KLGĐ-H ngày 22/7/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- 01 vỏ bao thuốc lá hiệu “Jet”, bên trong có 01 gói nylon chứa 15 viên nén màu xanh chuối có khắc chữ số “250” qua giám định là ma túy thể rắn, có khối lượng 7,5004g, loại MDMA.

- 01 gói nylon chứa 05 viên nén tròn màu vàng qua giám định không tìm thấy ma túy, có khối lượng 0,5597g. Đây là thuốc trợ tim của T.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (số thuê bao 0909658532).

- 01 xe gắn máy Honda Wave màu đỏ BS: 51Y4 - 7402, số khung RLHHC08042Y339069, số máy HC08E - 0339175. Qua xác minh, xe trên là do bà Lê Thị Kim O vợ của T mua từ cửa hàng mua bán xe D, quận T với giá 6.500.000 đồng và có làm giấy tờ mua bán. Bà o giao xe cho T mượn để chạy xe ôm, việc T sử dụng xe để phạm tội bà O không hề biết.

Tại Cáo trạng số 27/CTr-VKS ngày 20 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh thực hành quyền công tố trình bày quan điểm của Viện kiểm sát đối với vụ án, sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị mức án đối với bị cáo từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù giam, các vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kim sát viên, bị cáo, lời khai của người bị hại và nhân chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[2.1] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội trong vụ án nhu nội dung cáo trạng đã nêu. Hội đồng xét xử nhận thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đủ cơ sở kết luận: vào khoảng 22 giờ 45 phút ngày 13/7/2019, tại trước số nhà 1D Đ, Phường F, quận B, tổ tuần tra hỗn hợp Công an quận Bình Thạnh kiểm tra và bắt quả tang Nguyễn Minh T đang điều khiển xe gắn máy đi giao 7,5004g MDMA là ma túy ở thể rắn cho khách. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2.2] Bị cáo Nguyễn Minh T là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, tuy nhiên, nhằm mục đích kiếm lời, bị cáo đã nhận ma túy của đối tượng tên X để giao cho các đối tượng nghiện. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự trị an tại địa phương. Hành vi này đã tiếp tay cho các tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng của người dân cũng như chính sách phòng chống tội phạm về ma túy, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước. Đây là lỗi cố ý của bị cáo.

Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận nhận ma túy từ X và giao cho các đối tượng nghiện lấy lời từ tháng 4 đến tháng 7/2019, mỗi tuần giao khoảng 3,4 lần mỗi lần được T trả 100.000 đồng đến 200.000 đồng tiền công. Tuy nhiên không có chứng cứ nào khác chứng minh nên không truy tố bị cáo “phạm tội nhiều lần” theo điểm b khoản 2 điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Do đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hội đồng xét xử xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó Hội đồng xét xử quyết định áp dụng tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Đối với tên X (chưa rõ lai lịch) là người giao ma túy cho Nguyễn Minh T đi giao cho khách, Cơ quan điều tra - Công an quận Bình Thạnh đang tiến hành xác minh nhân thân, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

[5] Về vật chứng:

- Đối với: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu “Jet”, bên trong có 01 gói nylon chứa 15 viên nén màu xanh chuối có khắc chữ số “250” qua giám định là ma túy thể rắn, có khối lượng 7,5004g, loại MDMA là chất thuộc độc quyền quản lý của nhà nước, cấm lưu hành nên cần tuyên tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (số thuê bao 0909658532) T dùng để mua bán ma túy là phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tuyên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

- 01 gói nylon chứa 05 viên nén tròn màu vàng qua giám định không tìm thấy ma túy, có khối lượng 0,5597g. Đây là thuốc trợ tim của T, tại phiên tòa bị cáo yêu cầu tiêu hủy (vì đã để lâu ngày), do vậy tuyên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 xe gắn máy Honda Wave màu đỏ BS: 51Y4 - 7402, số khung RLHHC08042Y339069, số máy HC08E - 0339175. Quá trình điều tra, xác định là tài sản riêng của bà Lê Thị Kim O (vợ của T). Bà O giao xe cho T mượn để chạy xe ôm, việc T sử dụng xe để phạm tội bà O không biết. Do đó cần thiết trả lại cho bà Lê Thị Kim O.

[6] Về số tiền thu lợi bất chính, hình phạt bổ sung và án phí:

Về số tiền thu lợi bất chính, hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử nhận thấy tại phiên tòa, bị cáo khai nhận chỉ giao ma túy có 3 lần, mỗi lần được trả công từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Do đó cần tịch thu số tiền thu lợi bất chính của bị cáo là 500.000 đồng. Ngoài ra, xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, là trụ cột chính trong gia đình, do đó Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 để miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 07 năm 06 tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2019.

Tịch thu số tiền thu lợi bất chính của bị cáo là 500.000 đồng.

2/ Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: 02 gói niêm phong bên ngoài có ghi vụ số 1443/19 B Thạnh (1), 1443/19 B Thạnh (2) và các chữ ký ghi tên Giám định viên Võ Anh Tuấn, cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu vật còn sót lại sau khi đã phục vụ giám định.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (số thuê bao 0909658532) không kiểm tra tình trạng.

- Trả lại cho bà Lê Thị Kim O (sinh năm: 1974; đại chỉ: 234C X, Phường F, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh): 01 xe gắn máy BS 51Y4 - 7402 (nhãn hiệu: Honda Wave; màu đỏ; số khung: RLHHC08042Y339069; số máy: HC08E - 0339175; dung tích xi lanh: 97, số loại: hai bánh).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh)

3/ Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về