Bản án 48/2020/HSST ngày 09/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN 

BẢN ÁN 48/2020/HSST NGÀY 09/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2020/TLST- HS ngày 26 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2020/QĐXXST- HS ngày 29/5/2020, đối với bị cáo:

NGUYỄN THANH T; Tên gọi khác: Nhí hô; Sinh năm: 1988 tại tỉnh Bình Thuận Nơi ĐKHKTT: Khu phố 11, phường P, TP C; Chỗ ở: KP1, phường P2, TP.C; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch:Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 2/12; Nghề nghiệp: Thợ sửa khóa; Con ông Nguyễn Ng; Sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị T1; Sinh năm 1970 Tiền án, tiền sự: Không; Hoạt động nhân thân: Tại bản án số 19/2014/HSST ngày 24/01/2014, bị Tòa án nhân dân TP.C xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong án phạt tù ngày 15/3/2014, đương nhiên xóa án tích theo quy định tại điều 70 Bộ luật Hình sự. Bị bắt ngày03/01/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong các ngày 25/9/2019 và 03/01/2020, NGUYỄN THANH T đã 02 lần thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, cụ thể như sau:

+ Lần thứ nhất:

Vào khoảng 16 giờ ngày 25/9/2019, NGUYỄN THANH T đang ở phòng trọ thuộc KP3, phường P2, TP.C thì có đối tượng tên T2 (không rõ nhân thân) đến chơi. Vào phòng chơi được một lúc thì T2 lấy 01 nỏ thủy tinh từ bên trong túi xách T2 đang mang trên người, bên trong nỏ đã có sẵn ma túy đá rồi cả hai cùng sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, T2 để lại chiếc nỏ bên trong nỏ vẫn còn lại một ít ma túy đá cho T rồi đi về. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Nguyễn Tuấn P (sinh năm 1982, trú tại: KP11, phường P, TP.C), Lê Minh H (tên thường gọi Thồ, sinh năm 1990, trú tại KP5, phường P2, TP.C) và Đặng Văn Q (tên thường gọi Đệ, sinh năm 1977, trú tại: KP5, phường Phú Trinh, TP.C) đến phòng trọ của T chơi. Lúc này, T lấy ma túy đá trong nỏ thủy tinh của T2 và cùng với P, H và Q sử dụng. Khi cả bốn đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy-Công an TP.C phối hợp với Công an phường P2 phát hiện, thu giữ vật chứng là : 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá có chứa chất tinh thể màu trắng (được ký hiệu M khi giám định).

Tại bản Kết luận giám định số 948/KLGĐ-PC09 ngày 24/10/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự-Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,1167 gam là Methamphetamine + Lần thứ hai:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 02/01/2020, NGUYỄN THANH T đã mua 2,4 triệu đồng ma túy đá của một người tên Bi (không rõ nhân thân) mang về phòng trọ tại KP1, phường P2, TP.C phân nhỏ số ma túy vừa mua được thành 06 gói nhỏ rồi cất giấu tại đây nhằm mục đích sử dụng.

Đến khoảng 10 giờ 55 phút ngày 03/01/2020, T lấy 01 gói ma túy đá (trong số 06 gói đã phân nhỏ trước đó) mang qua nhà bạn để sử dụng. Khi đang đi đến khu vực khu phố 01, phường P2, TP.C, T nhìn thấy lực lượng Công an đang đi tuần tra, nên T đã ném 01 gói nylon ma túy vào sân nhà của ông Trần Văn Đ để phi tang thì bị Phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy - Công an tỉnh Bình Thuận (PC04) phối hợp với Công an phường P2, TP.C phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng 1,5 x 2,5 cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, (được thu giữ trên nền xi-măng trong sân nhà của ông Trần Văn Đ cách vị trí T đang đứng khoảng 02 mét, ký hiệu M1 khi giám định).

Đến 13 giờ 45 phút cùng ngày, tổ công tác đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi T thuê trọ số 3 tại: KP1, phường P2, TP.C, theo sự chỉ dẫn của T đã thu giữ thêm 01 bao thuốc lá hiệu “CRAVEN DEMI”, bên trong vỏ bao thuốc lá có chứa 05 gói nylon (được ký hiệu M2 khi giám định), bên trong mỗi gói đều chứa chất tinh thể màu trắng.

Tại bản Kết luận giám định số 08/KLGĐ-PC09 ngày 09/01/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự-Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

+ Mẫu M1(doT ném trong sân nhà ông Đăng) gửi giám định có khối lượng 0,5261 gam là Methamphetamine;

+ Mẫu M2( thu giữ tại phòng trọ của T) gửi giám định có khối lượng 4,1777 gam là Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 64/CT- VKS-HS ngày 21 tháng 5 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo NGUYỄN THANH T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b khoản 02 điều 249 Bộ luật Hình sự;

Ý kiến của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo xác định nội dung cáo trạng truy tố không oan sai và khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:Về tội danh và hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đã giữ nguyên quan điểm truy tố tại cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm b khoản 02 điều 249; điểm s khoản 01, điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo NGUYỄN THANH T mức án từ 06 năm đến 07 năm tù.

Về biện pháp tư pháp: đề nghị áp dụng quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm c khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và cân tiểu ly, tuyên trả lại điện thoại di động Nokia kèm sim cho bị cáo vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

Lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Bị cáo rất ân hận, mong Hội đồng xem xét khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]Về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh của bị cáo:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với kết quả giám định về vật chứng thu giữ là chất ma túy của Phòng kỹ thuật Hình sự của Công an tỉnh Bình Thuận, và các tài liệu chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:

NGUYỄN THANH T đã hai lần thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam, cụ thể như sau :

Lần thứ nhất: Vào khoảng 18 giờ ngày 25/9/2019, NGUYỄN THANH T đã tàng trữ Methamphetamine có khối lượng 0,1167 gam tại phòng trọ thuộc KP 01, phường P2,

TP.C và bị phát hiện khi T đang đưa khối lượng ma túy này ra để sử dụng.

Lần thứ hai: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 02/01/2020, NGUYỄN THANH T đã mua 2,4 triệu đồng ma túy đá của một người tên Bi (không rõ nhân thân) mang về cất giấu phòng trọ tại KP1, phường P2, TP.C, nhằm mục đích sử dụng, đến ngày 03/01/2020 thì bị phát hiện; Kết quả giám định kỹ thuật Hình sự đã kết luận chất ma túy này có khối lượng là 4,7031 gam và là Methamphetamine.

Như vậy với hai lần thực hiện hành vi cất giấu chất ma túy là Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, với định lượng ma túy tàng trữ trong mỗi lần từ 0,1 gam đến dưới 05 gam, hành vi của NGUYỄN THANH T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “ phạm tội 02 lần trở lên”quy định là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm b khoản 02, điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố đối với bị cáo với tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Đối với Nguyễn Tuấn P, Lê Minh H và Đặng Văn Q bị bắt quả tang khi đang cùng sử dụng trái phép chất ma túy cùng NGUYỄN THANH T, chứng cứ điều tra xác định những người này không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của T, do vậy cơ quan điều tra không xử lý hình sự mà đã chuyển xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, là đúng quy định pháp luật.

[3] Đánh giá nhân thân, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét thấy bị cáo đã bị phát hiện về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong vụ thứ nhất đang điều tra để truy cứu trách nhiệm Hình sự, thì lại tiếp tục cố ý đi mua ma túy về tàng trữ nhằm mục đích sử dụng với số lượng lớn hơn, chứng tỏ bị cáo thiếu ý thức tuân thủ pháp luật, không ăn năn hối cải. Hành vi phạm tội tàng trữ ma túy nhiều lần do bị cáo thực hiện trong vụ án là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý về chất ma túy của nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an địa phương, nhất là trong tình hình hiện nay tệ nạn ma túy đang lây lan, gây ra những hậu quả nguy hại trong cộng đồng xã hội. Do vậy cần thiết phải xử lý nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe giáo dục riêng và phòng chống tội phạm ma túy nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự quy định tại điểm s, khoản 01, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo phạm tội nhưng không có tình tiết tăng nặng.

[5]Về biện pháp tư pháp :

Đối với chất ma túy thu giữ trong vụ án, và các bao bì đóng gói chất ma túy còn lại sau khi giám định được niêm phong trong các phong bì số 948, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, các phong bì niêm phong số 08/1 và 08/2, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Đây là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, do vậy sẽ bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm c khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Đối với 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế, 01 cân tiểu ly, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu “CRAVEN DEMI” thu giữ của NGUYỄN THANH T, không có giá trị sử dụng, do vậy sẽ bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Đối với điện thoai di động hiệu Nokia gắn sim số 0944201626, thu giữ của NGUYỄN THANH T, nhưng không có căn cứ xác định tài sản này có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án, do vậy sẽ giao trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 200.000đ thu giữ của bị cáo sẽ tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án khoản tiền án phí Hình sự sơ thẩm của bị cáo tại bản án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

*Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 02 điều 249, điểm s khoản 01 điều 51 Bộ luật hình sự.

*Tuyên bố: Bị cáo NGUYỄN THANH T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 * Xử phạt: Bị cáo NGUYỄN THANH T 06 (sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 03/01/2020.

* Biện pháp tư pháp: điểm a khoản 01 điều 46, điểm a khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 02 điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng hiện không có giá trị sử dụng và nhà nước cấm lưu hành gồm: chất ma túy thu giữ trong vụ án, và bao bì đóng gói còn lại sau khi giám định được niêm phong trong các phong bì số 948, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, các phong bì niêm phong số 08/1 và 08/2, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận - Tuyên tịch thu tiêu hủy 02 bình sử dụng ma túy đá tự chế, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu “CRAVEN DEMI”, 01 cân tiểu ly, hu giữ của NGUYỄN THANH T, do không có giá trị sử dụng.

- Tuyên giao trả lại điện thoại di động hiệu Nokia gắn sim số 0944201626 cho NGUYỄN THANH T do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 200.000đ thu giữ của bị cáo, để đảm bảo thi hành án khoản tiền án phí Hình sự sơ thẩm của bị cáo tại bản án.

(Vật chứng được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản số 73 ngày 25/5/2020 và Giấy nộp tiền ngày 25/5/2020 vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố C tại Kho bạc nhà nước tỉnh Bình Thuận)

* Về án phí: Tuyên buộc bị cáo NGUYỄN THANH T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 09/6/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HSST ngày 09/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về