Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 48/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ LY HÔN

Trong ngày 13 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 155/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 54/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Phan T - sinh năm 199 Nơi cư trú: Thôn K, xã S, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

- Bị đơn: Bà Huỳnh N - sinh năm 199 Nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa: vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 03/3/202, bản tự khai, biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Phan T trình bày: Ông T và bà Huỳnh N tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S vào năm 201. Quá trình chung sống vợ chồng không hòa thuận, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau vì tính tình vợ chồng không hợp, bà N không chăm lo cho gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, hôn nhân không hạnh phúc.

Vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nay ông T xác nhận không còn tình cảm với bà N nữa nên yêu cầu tòa giải quyết ly hôn với bà N.

Về con chung: Vợ chồng có duy nhất 01 con chung tên Phan D, sinh ngày 29/8/201. Ông T yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu D đến tuổi trưởng thành. Ông T không yêu cầu bà N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về sự vắng mặt của bà N, ông T đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Đối với bị đơn bà Huỳnh N: Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa đã tiến hành thực hiện các thủ tục triệu tập, xác minh và niêm yết hợp lệ để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật nhưng bà N cố tình trốn tránh không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện của ông Phan T nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến trình bày:

+ Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án đã thực hiện đúng theo quy định.

Đối với bị đơn bà Huỳnh N đã được Tòa án triệu tập, xác minh và niêm yết hợp lệ nhưng bà N cố tình không có mặt tại Tòa để làm việc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Do vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà N là đúng theo quy định của pháp luật.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan T được ly hôn với bà Huỳnh N.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Phan D, sinh ngày: 29/8/201 cho ông Phan T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông T không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con chung nên không xét.

- Về tài sản chung: Ông Phan T không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

 - Về nợ chung: Ông Phan T xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai nên đề nghị không xem xét.

- Về án phí: Ông Phan T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, bị đơn bà Huỳnh N đã được Tòa án niêm yết hợp lệ đến lần thứ hai tại địa phương và nơi cư trú các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng bà N vẫn cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà Huỳnh N.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Ông Phan T yêu cầu được ly hôn với bà Huỳnh N và yêu cầu giải quyết nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về NỘI DUNG VỤ ÁN

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy ông Phan T và bà Huỳnh N tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa theo giấy chứng nhận kết hôn số 26/201, quyển số 01/201 ngày 14/4/201. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông Phan T và bà Huỳnh N là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu của đương sự, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, biên bản xác minh và được thẩm tra công khai tại phiên tòa NHẬN THẤY

Trong quá trình chung sống giữa ông T và bà N thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không ai còn quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng hiện nay không còn, xuất phát từ những bất đồng quan điểm trong cuộc sống chung dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt dần, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ năm 2016 đến nay, vợ chồng không còn chung sống với nhau. Tại phiên tòa, bà N vẫn cố tình vắng mặt qua đó cho thấy bà N đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình, bà N cũng không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng để duy trì cuộc sống chung hạnh phúc nên yêu cầu xin ly hôn của ông T cần chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Vợ chồng có duy nhất một người con chung là cháu Phan D, sinh ngày 29/8/201; ông T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu D đến tuổi trưởng thành; ông T không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy: Việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Trong vụ án này, từ khi mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, ông T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu D. Hiện nay, cháu D đang đi học và sống ổn định cùng với cha.

Do đó, quan điểm trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với Hội đồng xét xử nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về quan hệ hôn nhân và giao cháu D cho ông T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành; bà N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở theo quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.3] Về tài sản chung: Ông Phan T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Tại phiên tòa, bà Huỳnh N vắng mặt nên cần tách ra thành vụ kiện dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

[3.4] Về nợ chung: Ông Phan T xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai nên không xem xét.

[4] Về án phí: Ông Phan T phải chịu án phí dân sự về giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 232, Điều 264, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015:

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Phan T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Phan T được ly hôn với bà Huỳnh N.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Phan D, sinh ngày 29/8/201 cho ông Phan T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến trưởng thành (đủ 18 tuổi), ông T không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Huỳnh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

 Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

3. Về án phí: Ông Phan T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0009332 ngày 03 tháng 3 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Ông Phan T đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Quy định chung: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về ly hôn

Số hiệu:48/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về