Bản án 48/2020/DS-ST ngày 16/10/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU

 BẢN ÁN 48/2020/DS-ST NGÀY 16/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

 Ngày 16 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 150/2020/TLST-DS ngày 15 tháng 7 năm 2020 về việc “tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2020/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Hộ kinh doanh TQM.

Địa chỉ: Ấp H 1, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện hộ kinh doanh: Anh Lê Xuân H, sinh năm 1990. Người đại diện theo ủy quyền: Chị Huỳnh Xuân D, sinh năm 1988. Địa chỉ: Ấp H 1, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Văn bản ủy quyền ngày 23/6/2020)

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1976 và chị Cù Thị X, sinh năm 1976.

Cùng địa chỉ: Ấp VĐ, xã LĐĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Th, chị X vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 24/6/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 09/7/2020, trong quá trình tố tụng, chị Huỳnh Xuân D trình bày:

Vào năm 2014, anh Th và chị X có mua thức ăn nuôi tôm công nghiệp tại Hộ kinh doanh TQM. Việc mua bán diễn ra nhiều lần, anh Th và chị X có mua hàng rồi có trả tiền nhưng trả tiền không đầy đủ.

Trong quá trình giao dịch, anh Th và chị X là người trực tiếp đến cửa hàng mua thức ăn, khi giao nhận hàng anh Th và chị X có ký vào sổ theo dõi.

Đến ngày 31/12/2019, hai bên ngừng mua bán, qua đối chiếu sổ theo dõi thì Th và chị X còn nợ Hộ kinh doanh TQM 631.268.000 đồng, anh Th có ký xác nhận còn nợ số tiền trên.

Nay Hộ kinh doanh TQM yêu cầu anh Th và chị X có trách nhiệm trả tiền mua thức ăn nuôi tôm còn thiếu là 631.268.000 đồng, đồng thời yêu cầu trả tiền lãi từ ngày 31/12/2019 cho đến ngày 24/6/2020 với số tiền là 30.498.000 đồng.

Tại đơn khởi kiện bổ sung, Hộ kinh doanh TQM có yêu cầu tiền lãi chậm trả là 37.876.080 đồng, nay chỉ yêu cầu 30.498.000 đồng tiền lãi, số tiền còn lại là 7.378.080 đồng Hộ kinh doanh TQM rút lại, không yêu cầu giải quyết, việc rút lại yêu cầu là tự nguyện.

Tổng số tiền yêu cầu anh Th, chị X có nghĩa vụ trả 661.766 .000 đồng.

Anh Nguyễn Văn Th và chị Cù Thị X trình bày tại biên bản ghi lời khai ngày 15/10/2020.

Từ năm 2014 đến ngày 31/12/2019, anh chị có mua thức ăn nuôi tôm tại Hộ kinh doanh TQM, việc mua bán diễn ra nhiều lần, anh chị có mua hàng và trả tiền nhưng trả không đầy đủ. Hai bên ngừng mua bán với nhau vào ngày 31/12/2019. Khi ngừng mua bán Hộ kinh doanh TQM có thông báo cho anh chị biết số tiền còn thiếu là 631.268.000 đồng, anh Th có ký tên thừa nhận nợ.

Hiện nay Hộ kinh doanh TQM khởi kiện yêu cầu trả 631.268.000 đồng, anh chị thừa nhận là còn nợ và đồng ý trả.

Đối với số tiền lãi 30.498.000 đồng Hộ kinh doanh TQM có yêu cầu thì anh chị không đồng ý trả vì hiện nay gia đình đang rất khó khăn về kinh tế.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa là đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật tố tụng của nguyên đơn là đúng theo quy định; bị đơn chưa chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Hộ kinh doanh TQM yêu cầu anh Th và chị X trả 631.268.000 đồng. Anh Th, chị X thừa nhận còn nợ và đồng ý trả. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hộ kinh doanh TQM là phù hợp.

Đối với số tiền lãi Hộ kinh doanh TQM yêu cầu số tiền 30.498.000 đồng, là có căn cứ theo quy định tại Điều 440 của Bộ luật dân sự nên được chấp nhận.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi 7.378.080 đồng. Án phí đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định nội dung vụ án như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hộ kinh doanh TQM khởi kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản với anh Nguyễn Văn Th và chị Cù Thị X; anh Th và chị X có địa chỉ tại xã LĐĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị Huỳnh Xuân D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn Th và chị Cù Thị X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để dự phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

Tại đơn khởi kiện Hộ kinh doanh TQM yêu cầu anh Th và chị X trả 37.876.080 đồng tiền lãi, trong quá trình tố tụng, Hộ kinh doanh TQM chỉ yêu cầu anh Th, chị X trả 30.498.000 đồng tiền lãi. Xét thấy việc thay đổi yêu cầu là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Số tiền còn lại 7.378.080 đồng Hộ kinh doanh TQM không yêu cầu, căn cứ khoảng 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đình xét xử một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi 7.378.080 đồng.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1]. Hộ kinh doanh TQM khởi kiện yêu cầu anh Th, chị X trả 631.268.000 đồng tiền mua thức ăn nuôi tôm từ năm 2014 đến năm 2019. Anh Th, chị X thừa nhận có mua thức ăn nuôi tôm, hiện nay còn nợ số tiền trên và đồng ý trả. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử công nhận là sự thật và buộc anh Th và chị X có trách nhiệm trả cho Hộ kinh doanh TQM 631.268.000 đồng.

[2.2]. Đối với tiền lãi, anh Th và chị X không đồng ý trả vì theo anh, chị hiện nay gia đình đang khó khăn về kinh tế.

Hội đồng xét xử xét thấy, tại khoản 2 và khoản 3 Điều 440 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“Trường hợp các bên chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì thời hạn thanh toán tiền cũng được xác định tương ứng với thời hạn giao tài sản. Nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh toán tiền thì bên mua phải thanh toán tiền tại thời điểm nhận tài sản.

3. Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này” Đối chiếu với quy định trên thấy rằng: Ngày 31/12/2019 anh Th có ký biên nhận thừa nhận còn thiếu Hộ kinh doanh TQM số tiền 631.268.000 đồng và đồng ý trả. Tuy nhiên, từ khi ký nhận nợ cho đến nay anh Th và chị X không trả tiền nên Hộ kinh doanh TQM yêu cầu trả tiền lãi chậm trả là có căn cứ. Thời gian chậm trả từ ngày 31/12/2019 đến 24/6/2020 là 05 tháng 24 ngày, mức lãi suất yêu cầu là 10%/01 năm là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Tiền lãi anh Th, chị X có trách nhiệm trả là 631.268.000 đồng x 0.833% x 05 tháng 24 ngày = 30.498.000 đồng.

Tổng số tiền anh Th và chị X có trách nhiệm trả cho Hộ kinh doanh TQM là 661.766.000 đồng.

[2.3]. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch số tiền 30.470.640 đồng anh Th và chị X có nghĩa vụ nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Hoàn trả cho Hộ kinh doanh TQM tiền tạm ứng án phí 14.582.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007761 đã nộp ngày 15/7/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Quan điểm đề xuất của Kiểm sát viên là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận. Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 3 Điều 228, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 430, 440 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hộ kinh doanh TQM đối với anh Nguyễn Văn Th và chị Cù Thị X.

Buộc anh Nguyễn Văn Th và chị Cù Thị X có nghĩa vụ trả cho Hộ kinh doanh TQM tổng số tiền 661.766.000 đồng.

2/. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Hộ kinh doanh TQM đối với số tiền lãi 7.378.080 đồng.

3/. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch buộc anh Nguyễn Văn Th và chị Cù Thị X có nghĩa vụ nộp 30.470.640 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Hoàn trả cho Hộ kinh doanh TQM tiền tạm ứng án phí 14.582.000 đồng đã nộp ngày 15/7/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hải theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007761.

4/. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoảng tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tài khoản 2 Điều 468 Bộ Luật dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/DS-ST ngày 16/10/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:48/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về