TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THUỴ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại phòng xét xử hình sự Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử xử 49/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Vũ Đình Đ, sinh ngày 22 tháng 02 năm 1993; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: thôn TCP, xã Tr, huyện TT, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 07/12; Bố đẻ: Vũ Đình M, sinh năm 1957, mẹ đẻ: Vũ Thị H (đã chết); mẹ kế: Mai Thị Th, sinh năm 1957; bị cáo chưa có vợ, con; Từ tháng 9/2011 đến tháng 01/2013 tham gia quân đội nhân dân Việt Nam, đóng quân tại vùng 5 Hải Quân.
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị tạm giữ từ ngày 23/4/2019 đến ngày 26/4/2019 chuyển tạm giam.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)
* Người chứng kiến:
- Ông Lê Xuân Kh, sinh năm 1974 – Vắng mặt
- Bà Vũ Thị D, sinh năm 1976 –Vắng mặt
Đều cư trú tại: thôn CB, xã Tr, huyện TT, Thái Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 09 giờ 30 phút ngày 23/4/2019, bị cáo Vũ Đình Đ đi bộ từ nhà đến thôn CB, xã Tr mua 05 gói ma túy, loại Heroine (Hêrôin) giá 500.000 đồng của người đàn ông khoảng 45 tuổi không biết tên, địa chỉ để về sử dụng. Đến khoảng 09 giờ 45 phút, khi bị cáo đang đi tại đường thôn CB thì bị tổ công tác Công an huyện TT và Phòng cảnh sát ma túy Bộ tư lệnh vùng Cảnh sát biển 1 làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện. Tại đây, trước sự chứng kiến của ông Lê Xuân Kh và bà Vũ Thị D tổ công tác tiến hành kiểm tra người bị cáo, thu giữ tại lòng bàn tay trái 05 gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở ra bên trong có 05 gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, niêm phong vật chứng mẫu số A1. Tổ công tác đã đưa bị cáo và mời người người chứng kiến về trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tr lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Khám xét nơi ở của bị cáo Đ không thu giữ gì.
Bản kết luận giám định số 127/KLGĐ-PC09 ngày 23/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục trong mẫu số A1 gửi giám định là loại ma túy, loại Heroine (Herôin), có khối lượng 0,2364 gam (không phẩy hai nghìn ba trăm sáu mươi bốn gam).
Bản cáo trạng số 51/CT-VKSTT ngày 31 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố Vũ Đình Đ tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội: Đề nghị tuyên bố Vũ Đình Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt Vũ Đình Đ từ 1 năm 3 tháng đến 1 năm 9 tháng tù, không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng;
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận tội, bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều luật và hình phạt Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo; Lời nói sau cùng bị cáo nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Bị cáo Vũ Đình Đ có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ ma túy làm hủy hoại sức khỏe, làm khánh kiệt tài sản và là nguyên nhân dẫn đến nhiều vi phạm pháp luật; Tàng trữ trái phép chất ma túy xâm phạm tới chế độ quản lý của Nhà nước về ma túy, là vi phạm pháp luật hình sự nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái trái phép ma túy. Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý vật chứng, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định; Lời khai của người chứng kiến là ông Lê Xuân Kh và bà Vũ Thị D cùng các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249 : Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)……………….
.........................
c) Heroine, Cocainen, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam ;
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”
[3] Vũ Đình Đ không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo nhận thức rõ việc làm sai trái của mình, thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có thời gian tham gia Quân đội nên cho hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự ;
[4] Với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải áp dụng Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt tù giam với mức hình phạt tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Bị cáo tàng trữ ma túy với lượng nhỏ để sử dụng, qua xác minh bị cáo không có tài sản, thu nhập hàng ngày chỉ đủ cho sinh hoạt tối thiểu nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về người bán ma túy cho bị cáo do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, nhận dạng nên không có cơ sở để xử lý.
[7] Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy Heroine đã thu giữ;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Mục I danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án Nghị quyết 326/2016//UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử:
1. Tội danh:
Tuyên bố bị cáo Vũ Đình Đ phạm tội : “Tàng trữ trái phép chất ma túy.”
2. Hình phạt:
Xử phạt bị cáo Vũ Đình Đ 01(một) năm 03(ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/4/2019.
3. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 0,2172 gam ma túy, loại Heroine (Hêrôin) - số ma túy còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định, mẫu A1 đựng trong phong bì niêm phong số 127/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình ( Tất cả vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Thái Thụy và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy ngày 31/5/2019)
4. Về án phí:
Bị cáo Vũ Đình Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo:
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 25/6/2019).
Bản án 48/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 48/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về