Bản án 48/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2019/TLST-HS ngày 03/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2019/QĐXXST-HS ngày 10/5/2019 đối với bị cáo:

Trần Đại D, sinh ngày 09 tháng 02 năm 1983 tại thành phố S, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: tổ 10, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hải Đ và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 06/11/2007, Tòa án nhân dân thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 15/7/2010, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù, phạt tiền 1.000.000 đồng về tội mua bán trái phép chất ma túy; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/12/2018 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 10 phút ngày 06/12/2018, tại khu vực bản N, phường C, thành phố S, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an phường Q phối hợp với Công an phường C phát hiện, bắt quả tang Trần Đại D đang cất giữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 198 viên nén màu hồng hình tròn đồng dạng (D khai là hồng phiến mua về để sử dụng); 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất cục, bột màu trắng (D khai là Heroine mua về để sử dụng).

Tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng viền màu trắng, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim di động viettel seri 05 số cuối là …; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philip màu đen vàng, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim di động 05 số cuối là …; 01 xe máy nhãn hiệu Suzuki màu xanh, biển kiểm soát .., đã qua sử dụng; 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Đại D.

Ngày 06/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng. Kết quả:

- 198 viên nén màu hồng hình tròn trong 01 gói nilon màu xanh có khối lượng 18,45 gam. Lấy 08 viên có khối lượng 0,76 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu D1. Còn lại 190 viên có khối lượng 17,69 gam lưu kho, ký hiệu D2.

- Số cục bột màu trắng trong gói nilon màu trắng có khối lượng 0,85 gam. Lấy 0,17 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu D3; còn lại 0,68 gam lưu kho, ký hiệu D4.

Kết luận giám định số 42 ngày 10/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu D3 là ma túy; loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,76 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,85 gam; loại Heroine và 18,45 gam; loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, D khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 06/12/2018, D điều khiển xe máy biển kiểm soát … đi từ nhà ở tổ 10, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La đến bản T, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La mua ma túy để sử dụng. Tại đây, D đã mua của một nam giới (không biết họ tên, địa chỉ) 02 gói ma túy với số tiền 4.000.000 đồng. D cất giấu ma túy vào túi quần đang mặc, điều khiển xe máy đi về thành phố S, đến khu vực bản N, phường C, thành phố S thì bị tổ công tác bắt quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng.

Đối với người bán ma túy cho Trần Đại D: Do D không biết họ tên, địa chỉ, ngoài lời khai của D không có tài liệu, chứng cứ nào khác để điều tra, xử lý.

Bản cáo trạng số 04/CT-VKSTP ngày 02/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố Trần Đại D về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm n, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Trần Đại D phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm n, o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Trần Đại D từ 07 năm đến 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Trần Đại D - sinh năm 1983. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 06/12/2018. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu kho D2 = 17,69 gam; mẫu lưu kho D4 = 0,68 gam”.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Suzuki màu xanh, biển kiểm soát ...., đã qua sử dụng.

Trả cho Trần Đại D:

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Đại D.

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng viền màu trắng có lắp theo 01 sim và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philip màu đen, vàng có lắp theo 01 thẻ sim (trong phong bì niêm phong).

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, nhất trí với cáo trạng truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến. Có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 06/12/2018, Trần Đại D đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 0,85 gam Heroine và 18,45 gam Methamphetamine để sử dụng. Tổng khối lượng hai chất ma túy tương đương 19,3 gam chất ma túy quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do vậy, hành vi của bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý với hai tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự: “Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này” và điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự “tái phạm nguy hiểm”. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Ngoài chiếc xe máy đã bị thu giữ và hai chiếc điện thoại đã sử dụng cũ, bị cáo không có tài sản khác, thu nhập lao động tự do không ổn định, xét không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Về vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu trắng, mẫu lưu kho D2 = 17,69 gam; mẫu lưu kho D4 = 0,68 gam. Xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Suzuki biển kiểm soát 16F3-1476 thu giữ của Trần Đại D, qua điều tra xác định chiếc xe đăng ký tên Ngô Văn C, không có trong tàng thư vật chứng, là tài sản của Trần Đại D đã sử dụng làm phương tiện phạm tội, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Đại D là giấy tờ tùy thân của bị cáo và đối với 02 điện thoại di động được xác định là tài sản của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội, xét cần trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm n, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố: Bị cáo Trần Đại D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt Trần Đại D 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 06/12/2018).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Trần Đại D.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc phong bì công văn Phòng Kỹ thuật hình sự tỉnh Sơn La đã niêm phong. Mặt trước ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Trần Đại D - sinh năm 1983. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 06/12/2018. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu kho ký hiệu D2 = 17,69 gam; mẫu lưu kho ký hiệu D4 = 0,68 gam”. Mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có 06 chữ ký + 06 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt và 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (Một) xe máy nhãn hiệu Suzuki màu xanh, biển kiểm soát …, không có gương bên phải, không có yếm 2 bên, đã qua sử dụng.

Trả cho Trần Đại D:

- 01 (Một) chứng minh nhân dân (số bị mờ, ảnh thẻ bị nhòe không rõ mặt) mang tên Trần Đại D.

- 01 (Một) chiếc phong bì công văn Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước ghi: “01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng viền màu trắng có Imei 1 có 5 số cuối là … đã qua sử dụng. Điện thoại có lắp theo 01 (Một) sim di động nhãn hiệu Viettel số sê ri sim 5 số cuối là …. đã qua sử dụng và 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Philip màu đen, vàng có Imei 1 có 5 số cuối là …. đã qua sử dụng. Điện thoại có lắp theo 01 thẻ sim di động không rõ nhãn hiệu có số sê ri 5 số cuối là … đã qua sử dụng”. Mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có 06 chữ ký + 06 dòng ghi họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 01 dấu tròn đỏ của Công an phường C, thành phố Sơn La, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/5/2019 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Trần Đại D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về