Bản án 48/2019/HSST ngày 16/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 48/2019/HSST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khaivụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 50/2019/TLST–HS ngày 22 tháng 4 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐẶNG TRUNG K; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1971 tại: Hà Nội; Nơi cư trú: ĐD, UN, ĐA, Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Đặng Đình L và con bà: Nguyễn Thị N; Tiền án: không; Nhân thân: có 04 tiền sự: Ngày 12/7/2004, Cai nghiện bắt buộc 24 tháng; Ngày 02/10/2008, Cai nghiện bắt buộc 24 tháng; Ngày 20/4/2012, Cai nghiện bắt buộc 24 tháng; Ngày 14/9/2018, CAP Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 05/12/2018, tạm giam từ ngày 14/12/2018 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:- Đào Quốc T .Sinh năm: 1988; HKTT: TƯ, VH, ĐA, Hà Nội.

Vắng mặt tại phiên tòa.

-Phạm Văn S Sinh năm: 1991; HKTT: HH, LH, ĐA, Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22h40’ ngày 04/12/2018, Công an huyện Đông Anh làm nhiệm vụ tại Hương Trầm, Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội, phát hiện Đặng Trung K đang đỗ xe máy nhãn hiệu Honda- Vision, BKS: 29S1-530.35 ở ven đường có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra.

Khám người theo thủ tục hành chính đối với Đặng Trung K phát hiện thu giữ trong túi quần phía trước bên phải K đang mặc có 04 (bốn) viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp; Trong túi quần phía trước bên trái có 01 (một) túi nilông màu trắng, kích thước (03 x 3,5)cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng và 01 (một) túi nilông màu trắng, kích thước (03 x 3,5)cm bên trong chứa chất bột màu hồng nghi là ma túy tổng hợp. Trong lòng bàn tay trái của K đang cầm một chiếc điện thoại di động màu đen, lắp sim số thuê bao: 0355441068 nhãn hiệu 1+, có số IMEI 1: 868051021161975; số IMEI 2: 868051021161967.

Khám phương tiện theo thủ tục hành chính đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Vision, BKS: 29S1-530.35 của Đặng Trung K. Phát hiện thu giữ trong cốp xe có 01 mũ bảo hiểm bên trong mũ có 02 (hai) túi nilông, kích thước (04 x 07)cm chứa tinh thể màu trắng nghi ma túy tổng hợp; 01 ví da bên trong có 01 (một) túi nilông, kích thước (1,5 x 02)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp, 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân mang tên Đặng Trung K (SN: 1971, HKTT: ĐD, UN, ĐA, Hà Nội) và số tiền 720.000đ (bảy trăm hai mươi nghìn đồng).

Tiến hành kiểm tra xung quanh vị trí Đặng Trung K đang đứng phát hiện thu giữ tại mặt đường, cách đuôi chiếc xe máy BKS: 29S1-530.35 khoảng 02m có 01 (một) túi nilông màu trắng, kích thước (04 x 07)cm bên trong chứa 97 (chín mươi bảy) viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp. Công An huyện Đông Anh lập biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng đưa Đặng Trung K về trụ sở để điều tra làm rõ.

Cơ quan điều tra – CA huyện Đông Anh ra quyết định trưng cầu giám định số vật chứng thu giữ của Đặng Trung K, ngày 13/12/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội có Bản kết luận giám định số: 9268/KLGĐ, kết luận:

Vật chứng thu giữ khi khám người:

- 04 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,390 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông có khối lượng 0,090 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- Chất bột màu hồng bên trong 01 túi nilông có khối lượng 0,150 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ khi khám xe - Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon có tổng khối lượng 10,660 gam là ma túy loại Methamphetamine.

- Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilông có khối lượng 0,190 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ khi kiểm tra gần vị trí K đứng:

- 97 viên nén màu hồng bên trong 01 túi nilông có tổng khối lượng 9,940 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đặng Trung K tại ĐD, UN, ĐA, Hà Nội và MT, TL, ĐA, Hà Nội không phát hiện thu giữ vật chứng gì liên quan đến hành vi phạm tội của Kiên.

Tại Cơ quan điều tra Đặng Trung K khai nhận:

Do nghiện ma túy nên K mua ma túy về bán cho những đối tượng có nhu cầu để kiếm lời và để sử dụng cho bản thân. Trưa ngày 04/12/2018, Kiên đi xe máy BKS:

29S1- 530.35 một mình từ phòng trọ tại MT, TL, ĐA, Hà Nội đến khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh để mua ma túy. Đến Từ Sơn, Bắc Ninh (không rõ địa chỉ cụ thể) K gặp và đặt vấn mua của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đang đứng ở ven đường 100 viên ma túy “Ngựa” và 02 “hộp 5 ma túy Đá” với giá 18.000.000đ. Ngoài ra, người đàn ông này còn cho K thêm 02 túi nilon nhỏ ma túy “Đá”, 01 túi nilon nhỏ ma túy “Ngựa” (đã nghiền thành bột) và 01 viên ma túy “Ngựa”. Mua xong, K giấu số ma túy này vào trong người và trong xe máy rồi đi về phòng trọ và luôn giữ số ma túy này trong người và xe máy của K.

Đến khoảng hơn 22h00’ cùng ngày, K đi xe máy BKS: 29S1- 530.35 một mình từ khu vực chợ Kim, Xuân Nộn về phòng trọ tại MT, TL, ĐA, Hà Nội. Khi đi đến Trạm Y tế xã Thụy Lâm thuộc Hương Trầm, Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội, K đỗ xe ở ven đường để đi vệ sinh. Khi K vừa đỗ xe thì thấy lực lượng Công an đến kiểm tra nên K lấy 01 túi nilon bên trong có 97 viên ma túy “Ngựa” vứt ra ven đường. Khi K vừa vứt xong thì bị Lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ.

Quá trình điều tra vụ án bị can Đặng Trung K thay đổi lời khai, K khai nhận: K gặp và mua 03 túi nilông ma túy “Đá” với giá 500.000đ của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đang đứng ở ven đường. Mua xong, K đi đến một nhà nghỉ ở gần đó (không rõ tên nhà nghỉ) thuê phòng rồi sử dụng một mình hết 01 túi nilon ma túy “Đá”. Sử dụng ma túy xong, K cất 01 túi nilon ma túy “Đá” vào trong ví còn 01 túi cất trong túi quần, còn 04 viên ma túy “Ngựa” và 01 túi nilon ma túy “Ngựa” đã được nghiền nhỏ K được T1 cho. K khai 02 túi nilon ma túy “Đá” để ở mũ bảo hiểm trong cốp xe máy là của T1, T1 để ở đó từ khi nào K không biết. Còn 01 túi nilong chứa 97 viên ma túy “Ngựa” ở cách xe máy của K 02 m là của ai, có ở đó từ bao giờ K không biết chỉ khi Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện thu giữ lúc này K mới biết. Mục đích K mua ma túy và lấy số ma túy T1 cho về sử dụng, ngoài ra không còn mục đích nào khác. Từ trước cho đến khi bị bắt K không bán ma túy cho ai.

Căn cứ vào các tài liệu điều tra thu thập được như: Biên bản khám người theo thủ tục hành chính, lời khai nhân chứng, người liên quan, BB tạm giữ đồ vật tài liệu, BB kiểm tra điện thoại…xác định số ma túy thu giữ là của K, không phải của ai khác cũng như lời khai nhận của K tại BL 62 – 74 đủ căn cứ xác định số ma túy 21,420gam Methaphetamine là của K. Ngoài ra Cơ quan điều tra còn làm rõ Đặng Trung K có bán ma túy cho Đào Quốc T (Sinh năm: 1988; HKTT: TƯ, VH, ĐA, Hà Nội) và Phạm Văn S (Sinh năm: 1991; HKTT: HH, LH, ĐA, Hà Nội) vào các ngày 27/11/2018 và 02/12/2018, cụ thể:

+ Lần thứ nhất: Ngày 27/11/2018 T có mua của K 300.000 đồng tiền ma túy đá loại Methaphetamine tại cửa phòng trọ của K ở TL, ĐA, Hà Nội.

+ Lần thứ hai: Ngày 02/12/2018 S đến phòng trọ của K ở MT, TL, ĐA mua 200.000 đồng tiền ma túy đá loại Methaphetamine sau đó cùng K sử dụng rồi đi về.

Tại Cơ quan điều tra K không thừa nhận hai lần bán ma túy cho T và S như đã nêu trên. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được như: lời khai của Đào Công T, lời khai của Phạm Văn S; BB dẫn giải xác định địa điểm T, S mua ma túy của K;…đủ căn cứ xác định K có hành vi bán ma túy nhiều lần.

Ngoài ra T và S còn khai nhận nhiều lần mua ma túy của K tại phòng trọ ở MT, TL, ĐA, Hà Nội nhưng ngoài lời khai của T, S không còn tài liệu nào khác chứng minh nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với K.

Đối với người tên “T1” và người đàn ông bán ma túy cho K ngày 04/12/2018 như lời khai của K, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra nhưng không xác minh làm rõ được.

Đối với 01 chiếc ví da K cất giấu ma túy, 01 chiếc điện thoại và 720.000 đồng thu giữ của Đặng Trung K, 01 chiếc điện thoại di động tạm giữ của Đào Công T là vật chứng vụ án cần tiếp tục tạm giữ chuyển Tòa án giải quyết theo thẩm quyền.

Đối với chiếc điện thoại di động tạm giữ của Phạm Văn S quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Sứ, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Đặng Trung K là tài sản hợp pháp của K. Ngày 29/3/2019 Cơ quan CSĐT – Công An huyện Đông Anh ra quyết định xử lý vật chứng trả lại anh S, ông Đặng Đình L (bố đẻ K).

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda - Vision, BKS: 29S1- 530.35, Đặng Trung K khai mượn của chị Nguyễn Thị K1 (SN: 1979; HKTT: TL, TL, ĐA, Hà Nội; Chỗ ở: MT, TL, ĐA, Hà Nội) từ sáng ngày 04/12/2018. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị T2 (SN: 1985, HKTT: TL, TL, ĐA, Hà Nội) do không có nhu cầu sử dụng nên chị T2 mang cho chị K1 mượn làm phương tiện đi lại. Việc K sử dụng chiếc xe máy mượn của chị K1 đi đâu làm gì chị K1 không biết, chị K1 không để đồ vật gì trong cốp xe máy trước khi cho K mượn. Ngày 29/3/2019 Cơ quan CSĐT –Công An huyện Đông Anh ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy trên cho chị Nguyễn Thị T2.

Đối với Đào Công T và Phạm Văn S mục đích mua ma túy về để sử dụng ngoài ra không còn mục đích nào khác xác định T, S có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra trích sao tài liệu liên quan chuyển cho Công an xã Vân Hà và Liên Hà, Đông Anh để thiết lập hồ sơ đưa vào diện quản lí theo Nghị định .

Tại bản cáo trạng số 50/CT.VKS ngày 18/4/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã truy tố Đặng Trung K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điển b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà:

* Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố Đặng Trung K theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điển b, c, i khoản 2 Điều 251; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Đặng Trung K từ 09 đến 10 năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo - Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,630 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên; 10,850 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên. 9,940 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên; 01 ví da + Tịch thu sung công 02 điện thoại di động và 720.000 đồng.

* Bị cáo Đặng Trung K không thừa nhận hành vi như bản cáo trạng đã nêu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đặng Trung K khai nhận: Đặng Trung K gặp và mua 03 túi nilông ma túy “Đá” với giá 500.000đ của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đang đứng ở ven đường. Mua xong, K đi đến một nhà nghỉ ở gần đó (không rõ tên nhà nghỉ) thuê phòng rồi sử dụng một mình hết 01 túi nilon ma túy “Đá”. K cất 01 túi nilon ma túy “Đá” vào trong ví còn 01 túi cất trong túi quần, còn 04 viên ma túy “Ngựa” và 01 túi nilon ma túy “Ngựa” đã được nghiền nhỏ K được T1 cho. K khai 02 túi nilon ma túy “Đá” để ở mũ bảo hiểm trong cốp xe máy là của T1, T1 để ở đó từ khi nào K không biết. Còn 01 túi nilong chứa 97 viên ma túy “Ngựa” ở cách xe máy của K 02 m là của ai, có ở đó từ bao giờ K không biết chỉ khi Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện thu giữ lúc này K mới biết. Mục đích K mua ma túy và lấy số ma túy T1 cho về sử dụng, ngoài ra không còn mục đích nào khác. Từ trước cho đến khi bị bắt K không bán ma túy cho ai.

Xét lời khai của bị cáo, lời khai của các nhân chứng anh Đào Công T và Phạm Văn S, Biên bản khám người theo thủ tục hành chính, lời khai nhân chứng, người liên quan, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản kiểm tra điện thoại, Kết luận giám định …xác định số ma túy thu giữ là của K, không phải của ai khác phù hợp lời khai nhận của K tại BL 62 – 74 đủ căn cứ xác định số ma túy 21,420 gam Methaphetamine là của Kiên dùng để mua bán và sử dụng. Do đó, đủ căn cứ xác định: Ngày 04/12/2018 Cơ quan điều tra kiểm tra hành chính thu giữ của Đặng Trung K 21,420 gam ma túy loại Methamphetamine tại Hương Trầm, Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội. Quá trình điều tra xác định Đặng Trung K mua ma túy về để bán kiếm lời, ngoài ra trước đó K đã nhiều lần bán ma túy, cụ thể:

+ Lần 1: Ngày 27/11/2018 K bán cho Đào Công T 300.000 đồng tiền ma túy đá loại Methaphetamine tại cửa phòng trọ ở MT, TL, ĐA, Hà Nội.

+ Lần 2: Ngày 02/12/2018 K bán cho Phạm Văn S 200.000 đồng tiền ma túy đá loại Metaphetamine tại phòng trọ ở MT, TL, ĐA, Hà Nội.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận của Đặng Trung K đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố bị cáo là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi bán trái phép chất ma tuý là phạm tội nhưng vì hám lợi bị cáo cố tình thực hiện. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không thành khẩn nhận tội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng......”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo [6]Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,630 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên; 10,850 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên. 9,940 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên; 01 ví da và tịch thu sung công 02 điện thoại di động và 720.000 đồng.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáophải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Trung K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào:

- Khoản b, c, i Khoản 2 Điều 251; Điều 38 Điều 47; Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333;Điều 336; Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Điểm 1 mục I phần A – Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016).

1. Xử phạt: Đặng Trung K 10 ( mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/12/2018.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,630 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên; 10,850 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên. 9,940 gam là ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký xác nhận của Đặng Trung K, người chứng kiến và Giám định viên; 01 ví da. Tịch thu sung công 02 điện thoại di động (theo biên bản bàn giao giao vật chứng ngày 19/4/2019 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh) và 720.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Hiện đã được nộp và tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 19/4/2019 tại Kho bạc nhà nước Đông Anh).

4. Buộc bị cáo Đặng Trung K phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng)tiền án phí hình sự sơ thẩmđể sung ngân sách Nhà nước.

Án xử sơ thẩm công khai, Bị cáo quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HSST ngày 16/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về