Bản án 48/2019/HS-ST ngày 13/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 13/05/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 13 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 28/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2019/HSST-QĐ ngày 07/5/2019 đối với bị cáo:

Đỗ Ngọc T; sinh năm 1980 tại Long An; nơi đăng ký thường trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn X, sinh năm 1961 và bà: Phạm Thị Kim L, sinh năm 1963; có vợ: Nguyễn Thị Ngọc P, sinh năm 1984 và 01 con: sinh năm 2008; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: không. Có mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1969 (chết)

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Ông Phạm Văn D, sinh năm 1965, là chồng của bị hại, nơi cư trú: phường E, quận F, Tp. Hồ Chí Minh. Có mặt.

2. Anh Phạm Hoàng A, sinh năm 1992, là con của bị hại, nơi cư trú: phường E, quận F, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Thị Hoàng O, sinh năm 1989, là con của bị hại, nơi cư trú: xã I, huyện H, Tp. Hồ Chí Minh. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty TNHH Một thành viên X. Địa chỉ: phường M, Quận N, Tp. Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Thụ, sinh năm 1980, nơi cư trú: phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 29/6/2018, Đỗ Ngọc T (là tài xế của Công ty TNHH MTV X – chi nhánh Gia Định) điều khiển xe ôtô biển số 51C-107.90 (loại xe chuyên dụng chở rác của công ty) đang lưu thông trên đến trước nhà số 288C Âu C, Phường O, quận P, phía trước có xe ôtô, xe gắn máy đang chuyển hướng sang đường Trần Đình T (quận F). Lúc này, T cho xe chuyển hướng vào lề đường (phía bên phải) để vượt lên, T chỉ quan sát phía bên trái vì sợ máng vào xe ôtô đang chuyển hướng vào đường Trần Đình T, mà không quan sát phía bên phải (bên phụ xe). T điều khiển xe chạy lên thì thấy xe tưng lên, cán qua vật gì, nên liền thắng xe dừng lại, T nhìn kính chiếu hậu bên phụ xe thì biết đã gây tai nạn. T liền xuống xe xem và biết nạn nhân là bà Nguyễn Thị Ngọc L điều khiển xe đạp lưu thông phía trước cùng chiều đã chết, T điện thoại báo công ty và nhờ phụ xe là anh Trần Quốc T ở lại hiện trường, còn T đến Công an Phường 10, quận Tân Bình trình báo.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Tân Bình đã kết hợp với Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Đội Cảnh sát giao thông Công an quận Tân Bình tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện liên quan, lấy lời khai những người liên quan. Kết quả khám nghiệm hiện trường:

- Hiện trường khô ráo, ánh sáng ban ngày, tình trạng hiện trường còn nguyên vẹn, mặt đường trải nhựa bằng phẳng, chiều rộng mặt đường 13m80 có vạch sơn phân tuyến không liên tục, áp dụng cho 02 chiều xe lưu thông. Lúc xảy ra tai nạn đường đông xe lưu thông, đoạn đường nơi xảy ra không gắn camera quan sát. Hiện trường được đánh số thứ tự từ 1-7.

- Điểm mốc: Điểm mốc cố định trụ điện trước nhà số 288C Âu Cơ, các số đo được đo vào mép đườngbên phải theo chiều xe ôtô 51C-107.90 lưu thông (hướng Lạc Long Q về Trường C).

- Điểm dằn (ký hiệu 1): trụ điện.

- Vị trí xe ôtô 51C-107.90 (ký hiệu 2): sau tai nạn đầu xe hướng về đường Trường C, đuôi xe hướng Lạc Long Q. Trục bánh trước đo mép đường 2m70, trục bánh sau đo vào mép đường 2m70.

- Vị trí nạn nhân (ký hiệu 3): nằm ngửa, đầu hướng vào lề đường, chân hướng ra lòng đường, đầu nạn nhân đo vào mép đường là 2m80, chân đo vào mép đường là 4m30.

- Vết chà sát vết máu và vết cao su lốp xe trên đường (ký tên 4): Chiều dài vết chà là 7m10, đầu vết chà đo vào mép đường là 2m90.

- Vị trí xe đạp (ký hiệu 5): sau tai nạn ngã bên trái, bánh trước hướng vào lề đường, bánh sau hướng ra lòng đường. Tâm trục bánh trước đo vào mép đường là 1m90. Tâm trục bánh sau đo vào mép đường là 2m90.

- Vết cày xước trên đường (ký hiệu 6): Chiều dài vết cày xước là 0m80, đAầu vết cày xước đo vào mép đường là 2m90.

- Vết chà sát cao su trên đường (ký hiệu 7): Chiều dài là 4m60, đầu vết chà đo vào lề đường là 5m30, khoảng cách trục bánh xe đạp đến đầu vết chà là 1m70, khoảng cách từ đầu nạn nhân nằm đến trục bánh sau bên phải xe ô tô 51C-107.90 là 3m90.

Kết quả khám nghiệm dấu vết trên phương tiện liên quan tai nạn:

- Xe ô tô biển số 51C-107.90 sau tai nạn để lại dấu vết: Lốp bánh trước bên phải mặt ngoài có dính dịch máu KT: 48cm x 12cm cách tâm trục 5,5cm. Mặt ngoài bánh trước bên phải có vết trầy xước, vết chà sạch bụi KT: 20cm x 15cm, đo cách tâm trục là 47cm. Mặt ngoài bánh xe giữa bên phải có dính vết dịch máu KT: 47cm x 22cm, đo vào tâm trục KT: 55cm. Mặt ngoài bánh sau bên phải, bánh ngoài có dính dịch, vết máu KT: 50cm x 20cm, cách tâm trục 55cm. bánh trong phía sau bên phải dính dịch máu KT: 44cm x 17cm.

- Xe đạp có các dấu vết như sau: Phía sau chống xe đạp có vết trầy xước kim loại KT: 2cm x 3,5cm. bánh sau xe hư hỏng hoàn toàn, cong móp không xác định rõ hình dạng.

Kết luận khám nghiệm tử thi kết luận: bà Nguyễn Thị Ngọc L chết do đa chấn thương, trong máu không tìm thấy cồn.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trưng cầu Phân viện Khoa học hình sự - Bộ công an tiến hành cơ chế hình thành dấu vết vụ tai nạn và kết luận số 3552/C09B ngày 25/9/2018 của Phân viện khoa học hình sự, kết luận:

- Dấu vết trượt xước mất chất màu đen mặt ngoài phía dưới bên phải cán trước xe ô tô biển số 51C – 107.90 có chiều từ trước về sau phù hợp với dấu vết trượt xước bám chất màu đen mặt ngoài phía sau bên phải yên sau xe đạp có chiều từ sau về trước.

- Dấu vết cong biến dạng các chi tiết phía sau bên phải xe đạp (bánh sau, yên sau, yên trước, khung sườn) có chiều từ sau về trước, từ phải sang trái phù hợp va chạm với bánh bên phải xe ô tô biển số 51C – 107.90, khi xe đạp đã đổ trái xuống đường.

- Khi va chạm, xe ô tô biển sô 51C – 107.90 có tốc độ lớn hơn xe đạp.

- Không phát hiện thấy dấu vết va chạm giữa xe đạp với phương tiện khác khi tham gia tai nạn giao thông.

Quá trình điều tra, Đỗ Ngọc T thừa nhận hành vi “Vi phạm qui định về tham gia giao thông đường bộ” như nêu trên, phù hợp với lời khai và các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe ô tô mang biển số 51C-107.90 do Công ty TNHH MTV X đứng tên đăng ký và là chủ sở hữu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 034401 (xe mang biển số 51C-107.90, số khung: KMFDA18YP3C-025472, số máy: D8AY3-073345), do Phòng CSGT ĐB Công an TP.Hồ Chí Minh cấp ngày 15/10/2011, đã trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc số XH-TN 0387617 do Công ty bảo hiểm Bảo Long Sài Gòn cấp ngày 19/12/2017; đã trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông đường bộ số KC 5634933 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 50-02S câp ngày 12/4/2018 (biển đăng ký 51C-107.90; đã trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 xe đạp màu trắng (tạm giữ của nạn nhân Lang), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã ra quyết định trả lại cho gia đình bà Lang nhưng gia đình từ chối nhận lại do xe đã hư hỏng nặng, nhập kho vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 27 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Đỗ Ngọc T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Đỗ Ngọc T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Đỗ Ngọc T đã có hành vi không tuân thủ luật lệ giao thông đường bộ, điều khiển xe tải chở rác đã hết hạn được cấp phép lưu thông vào nội đô trong giờ cao điểm, chuyển hướng rẽ phải thiếu quan sát, đã gây tai nạn làm bà Nguyễn Thị Ngọc L bị đa chấn thương đã chết, vi phạm vào khoản 8 Điều 23 Luật giao thông đường bộ, đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, thuộc trường hợp “Làm chết người”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm an toàn công cộng, gây ảnh hưởng đến tình hình quản lý trật tự trị an xã hội, an toàn giao thông đường bộ và gây hậu quả chết người. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được việc không chấp hành an toàn giao thông khi lưu thông trên đường sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng chỉ vì chủ quan, cẩu thả nên bị cáo đã gây ra tai nạn. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm mục đích giữ gìn kỷ cương, lập lại trật tự trong lĩnh vực giao thông đường bộ, giáo dục, răn đe bị cáo và cũng để phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo đã tự thú, bị cáo đã tích cực tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại để khắc phục hậu quả, người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn bãi nại, xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hi đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và đang có công việc làm ổn định, người bị hại bãi nại và xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, trong thời gian tại ngoại không có vi phạm pháp luật, nghĩ không cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và cũng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và người liên quan Công ty TNHH Một thành viên X đã bồi thường đủ số tiền 80.000.000 đồng cho người đại diện hợp pháp của bị hại, hiện người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tang vật vụ án: 01 xe đạp màu trắng, xe đã bị cong, biến dạng, là tài sản của bị hại Nguyễn Thị Ngọc L. Bị hại đã chết, người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu nhận lại do xe đã hư hỏng, không còn giá trị sử dụng. Hội đồng xét xử xét thấy xe đạp trên là vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Đỗ Ngọc T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo: Đỗ Ngọc T 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Tịch thu và tiêu hủy 01 xe đạp màu trắng (xe đã bị cong, biến dạng).

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 04/PNK ngày 21/11/2018 của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

(Đã giải thích chế định án treo)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HS-ST ngày 13/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:48/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về