Bản án 48/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 48/2019/DS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 147/2019/TLST-DS, ngày 18 tháng 7 năm 2019, về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 243/2019/QĐXXST-DS, ngày 28 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt S, sinh năm 1977 (có mặt).

Nơi cư trú: Khóm A, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Vũ L, sinh năm 1992 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp G, xã N, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 7 năm 2019 cùng các văn bản khác kèm theo, nguyên đơn là ông Nguyễn Việt S trình bày: Vào ngày 10/3/2016, ông Nguyễn Vũ L có đến cửa hàng của ông (Nguyễn Việt S) mua thiết bị viễn thông (điện thoại), thỏa thuận trả hàng tháng. Việc thỏa thuận mua bán trả góp có làm hợp đồng mua bán (đề Hợp đồng mua bán), ông L có ký tên. Thời gian yêu cầu trả góp của bên mua (ông L) là 08 (tám) tháng, số tiền góp hàng tháng là 614.000 đồng. Như vậy, số tiền ông L phải góp là 4.912.000 đồng. Từ khi mua, ông L chưa thanh toán, ông có liên hệ đòi nhiều lần nhưng ông L cứ hẹn, cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy, ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Vũ L trả số tiền còn nợ là 4.912.000 đồng.

Bị đơn là ông Nguyễn Vũ L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không lý do và không cung cấp tài liệu, chứng cứ hay ý kiến đối với nội dung khởi kiện của ông Nguyễn Việt S.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân: Về tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 428, 429, 432 và 438 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Nguyễn Vũ L trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền 4.912.000 đồng. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch buộc ông 4.912.000 đồng phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Việc ông Nguyễn Việt S khởi kiện ông Nguyễn Vũ L trả tiền mua tài sản còn nợ nên đây là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Ông Nguyễn Vũ L được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với ông Nguyễn Vũ L.

[2]. Xét về quan hệ tranh chấp: Ông Nguyễn Việt S xác định ông Nguyễn Vũ L có thỏa thuận mua điện thoại còn nợ của ông số tiền là 4.912.000 đồng. Các bên có thỏa thuận là ông Nguyễn Vũ L phải trả góp hàng tháng (thời gian là 08 tháng), cam kết trả định kỳ hàng tháng vào ngày 05 đến ngày 10 hàng tháng, nếu trả trể phải chịu phạt 100.000 đồng/ngày. Mỗi tháng ông Nguyễn Vũ L phải trả cho ông 614.000 đồng. Từ đó, có căn cứ xác định đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản được quy định tại Điều 428 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

[3] Về nội dung: Ông Nguyễn Việt S xác định là ông đã thỏa thuận mua bán đối với ông Nguyễn Vũ L. Vào ngày 10/3/2016, ông Nguyễn Vũ L có mua điện thoại còn nợ tiền của ông Nguyễn Việt S. Số tiền phải trả góp hàng tháng là 08 tháng, cam kết trả định kỳ hàng tháng vào ngày 05 đến ngày 10 hàng tháng, nếu trả trể phải chịu phạt 100.000 đồng/ngày. Ông Nguyễn Vũ L phải trả hàng tháng là 614.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền ông Nguyễn Vũ L còn nợ là 4.912.000 đồng.

Để chứng minh cho lời trình bày của mình, ông Nguyễn Việt S đã cung cấp hợp đồng mua bán ngày 10/3/2016 có nội dung bên ông Nguyễn Việt S bán cho ông Nguyễn Vũ L 01 điện thoại, trả định kỳ hàng tháng, thời gian trả theo yêu cầu của bên ông Nguyễn Vũ L là 08 tháng, số tiền phải trả hàng tháng là 614.000 đồng. Hợp đồng do ông Nguyễn Vũ L ký, ghi họ và tên. Quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Vũ L không có ý kiến phản đối về nội dung khởi kiện và chứng cứ do ông Nguyễn Việt S cung cấp và cũng không có yêu cầu phản tố. Từ đó, có đủ cơ sở xác định ông Nguyễn Vũ L có nợ ông Nguyễn Việt S số tiền trên hợp đồng lập ngày 10/3/2016 là 4.912.000 đồng.

[4]. Do ông Nguyễn Vũ L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S và buộc ông Nguyễn Vũ L phải trả toàn bộ số tiền từ việc mua bán còn nợ là 4.912.000 đồng cho ông Nguyễn Việt S là có cơ sở.

[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ để chấp nhận.

[6]. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Ông Nguyễn Vũ L phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Áp dụng các điều 428, 438 của Bộ luật Dân sự năm 2005;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt S.

Buc ông Nguyễn Vũ L trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền là 4.912.000 đồng (bốn triệu chín trăm mười hai nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hà nh án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc ông Nguyễn Vũ L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Ông Nguyễn Việt S được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0019313 ngày 18 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Ông Nguyễn Việt S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Vũ L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:48/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về