Bản án 48/2019/DS-ST ngày 09/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BN ÁN 48/2019/DS-ST NGÀY 09/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 166/2019/TLST-DS, ngày 26/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 168/2019/QĐXXST-DS ngày 18/9/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Quỹ Tín Dụng nhân dân Đ.

Địa chỉ: số 313, đường ĐT 766, tổ 9, thôn 3, xã Đ, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Thị Tuyết, sinh năm 1982. Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị Quỹ tín dụng nhân dân Đ.

- Bị đơn: Bà Mạc Thị H, sinh năm 1976 và bà Hàng Thị C, sinh năm 1941.

Cùng địa chỉ: tổ 2, thôn 8, xã C, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/6/2019, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn trình bày:

Ngày 13/02/2014, bà Mạc Thị H đã ký hợp đồng tín dụng số T14/0028-08/HĐTD với Quỹ tín dụng nhân dân Đ để vay tín chấp số tiền 20.000.000 đồng, mục đích vay tiêu dùng, mức lãi suất vay trong hạn 1.3%/tháng, mức lãi suất quá hạn 1,95%/tháng. Thời hạn vay 12 tháng, đã điều chỉnh kỳ hạn trả nợ đến hạn là ngày 13/5/2015. Quá trình thực hiện hợp đồng vay vốn, bà H đã trả được tiền lãi đến ngày 29/9/2017. Riêng tiền gốc đã trả được như sau: Ngày 13/5/2015 trả 10.000.000 đồng; ngày 15/7/2019 trả 3.000.000 đồng; ngày 08/8/2019 trả 2.000.000 đồng. Như vậy bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Quỹ tín dụng đã nhiều lần làm việc và yêu cầu bà H trả dứt điểm nợ gốc và nợ lãi nhưng không có kết quả. Nay Quỹ tín dụng khởi kiện yêu cầu bà H và mẹ là bà C phải liên đới trả cho Quỹ tín dụng số tiền 9.495.000 đồng, trong đó nợ gốc 5.000.000 đồng, tiền lãi quá hạn tính đến ngày 09/10/2019 là 4.495.000 đồng. Kể từ ngày 10/10/2019, bà H và bà C còn phải tiếp tục chịu tiền lãi quá hạn trên số tiền nợ gốc theo mức lãi suất 1.95%/tháng cho đến khi trả xong nợ gốc cho Quỹ tín dụng.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 21/8/2019, bà Mạc Thị H và bà Hàng Thị C thống nhất khai như sau: Vào ngày 13/02/2014, bà H có vay của Quỹ tín dụng Đ số tiền 20.000.000 đồng; mục đích vay tiêu dùng; lãi suất vay 1,3%/tháng, lãi suất quá hạn 1.95%/tháng. Bà H nhận tiền vay vào ngày 13/02/2014. Ngày 13/5/2015, bà H trả được 10.000.000 đồng tiền gốc và đã trả lãi được đến hết ngày 29/9/2017. Sau khi Quỹ tín dụng khởi kiện thì bà H đã trả thêm được 5.000.000 đồng tiền gốc nhưng chưa trả được tiền lãi từ ngày 29/9/2017 cho đến nay. Nay Quỹ tín dụng khởi kiện thì bà H và bà C đồng ý trả số tiền nợ gốc 5.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng, nhưng đề nghị được trả dần vì hiện nay gia đình bà rất khó khăn. Ngày 21/8/2019, bà H và bà C có đơn xin xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh phát biểu quan điểm như sau:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định. Bị đơn không thực hiện đúng, đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa không có mặt bị đơn nhưng họ đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ là đúng quy định.

Về nội dung thì căn cứ vào các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp có trong hồ sơ vụ án và lời khai của mẹ con bà C và bà H, thì có căn cứ xác định bà H có vay 20.000.000 đồng tại Quỹ tín dụng nhân dân Đ vào ngày 13/02/2014. Bà H đã trả được tiền gốc 15.000.000 đồng và tiền lãi đã trả được đến hết ngày 29/9/2017. Tuy nhiên do bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và nợ lãi theo hợp đồng vay đã ký kết nên Quỹ tín dụng khởi kiện là có căn cứ, cần buộc bà C và bà H liên đới trả nợ theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được kiểm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các đương sự. Tòa án nhân dân huyện Đức Linh xác định quan hệ “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Căn cứ Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì TAND huyện Đức Linh thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

[3] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn vắng mặt nhưng đã có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật.

[4] Về áp dụng án lệ: Xét thấy nội dung tranh chấp của vụ án này có những tình tiết, sự kiện tương tự đã được nêu trong án lệ số 08/2016/AL đã được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, cụ thể: “Đối với các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này”. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng nội dung án lệ này để giải quyết.

[5] Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu hồ sơ do Quỹ tín dụng Đ cung cấp và lời khai của bà C, bà H thì có căn cứ xác định, ngày 13/02/2014, bà H đã vay tại Quỹ tín dụng Đ số tiền 20.000.000 đồng và được giải ngân vào ngày 13/02/2014. Hợp đồng tín dụng được xác định thời hạn vay 12 tháng, đã điều chỉnh thời hạn trả nợ đến ngày 13/5/2015. Lãi suất vay 1.3%/tháng, lãi suất quá hạn 1,95%/tháng. Căn cứ phụ lục hợp đồng kèm theo hợp đồng tín dụng số T14/0028-08/HĐTD thì ngày 13/02/2014, Quỹ tín dụng Đ đã giải ngân số tiền 20.000.000 đồng; bà H trả tiền nợ gốc như sau: Ngày 13/5/2015 trả 10.000.000 đồng; ngày 15/7/2019 trả 3.000.000 đồng; ngày 08/8/2019 trả 2.000.000 đồng. Tiền lãi bà H đã trả được đến ngày 29/9/2017. Như vậy, bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết. Do đó Quỹ tín dụng Đ khởi kiện để yêu cầu trả số nợ vay gốc và tiền lãi phát sinh là có căn cứ cần được chấp nhận. Xét thấy tại phiên tòa, yêu cầu trả tiền gốc và tiền lãi của Quỹ tín dụng Đ có lợi cho bị đơn và phù hợp nên được chấp nhận, cụ thể tiền lãi như sau:

- Từ ngày 29/9/2017 đến ngày 15/7/2019. Tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc 10.000.000 đồng là: 10.000.000 đồng x 1.95%/tháng x 21 tháng 15 ngày = 4.192.500 đồng.

- Từ ngày 15/7/2019 đến ngày 08/8/2019. Tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc 7.000.000 đồng là: 7.000.000 đồng x 1.95%/tháng x 23 ngày = 104.650 đồng.

- Từ ngày 08/8/2019 đến ngày 09/10/2019. Tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc 5.000.000 đồng là: 5.000.000 đồng x 1.95%/tháng x 02 tháng 01 ngày = 198.250 đồng.

Như vậy, tổng số tiền lãi tính đến ngày 09/10/2019 là 4.495.000 đồng.

Xét thấy việc giao kết hợp đồng vay vốn chỉ có mình bà H tham gia nhưng bà C là mẹ, ở chung nhà với bà H đồng ý cùng bà H trả số tiền nợ theo yêu cầu của Quỹ tín dụng. Do đó cần buộc mẹ con bà C trả nợ là có căn cứ.

Từ phân tích trên, căn cứ Án lệ số 08/2016/AL Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bà H và bà C phải liên đới trả cho Quỹ tín dụng nhân dân Đ tổng số tiền 9.495.000 đồng, trong đó nợ gốc 5.000.000 đồng, tiền lãi quá hạn tính đến ngày 09/10/2019 là 4.495.000 đồng. Kể từ ngày 10/10/2019, bà H và bà C còn phải tiếp tục chịu tiền lãi quá hạn trên số tiền nợ gốc theo mức lãi suất 1.95%/tháng cho đến khi trả xong nợ gốc cho Quỹ tín dụng là đúng pháp luật.

Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên buộc bà H và bà C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn là đúng pháp luật.

Bởi các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Án lệ số 08/2016/AL; Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân dân Đ.

1. Buộc bà Mạc Thị H và bà Hàng Thị C liên đới trả cho Quỹ tín dụng nhân dân Đ số tiền 9.495.000 đồng, trong đó nợ gốc 5.000.000 đồng, tiền lãi quá hạn tính đến ngày 09/10/2019 là 4.495.000 đồng. Kể từ ngày 10/10/2019, bà H và bà C còn phải tiếp tục chịu tiền lãi quá hạn trên số tiền nợ gốc theo mức lãi suất 1.95%/tháng cho đến khi trả xong nợ gốc cho Quỹ tín dụng.

2. Về án phí: Bà Mạc Thị H và bà Hàng Thị C phải chịu 475.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho Quỹ tín dụng nhân dân Đ số tiền 350.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0025435 ngày 26/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.

3. Về quyền kháng cáo: Quỹ tín dụng nhân dân Đ có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án (09/10/2019); bà Mạc Thị H và bà Hàng Thị C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án niêm yết bản án, để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/DS-ST ngày 09/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:48/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về