Bản án 48/2018/HS-ST ngày 19/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 19/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 6 năm 2018, tại Nhà văn hóa thôn T, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 38/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 21 tháng 01 năm 1993, tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú: Thôn G, thị trấn L, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 8/12; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Tuấn P và bà Nguyễn Thị I; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Xấu; bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Chi Lăng từ ngày 07/02/2018 đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị I; nơi cư trú: Thôn G, thị trấn L, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ, ngày 07 tháng 02 năm 2018 tại thôn M, thị trấn L, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Công an huyện Chi Lăng kiểm tra Nguyễn Tuấn A, phát hiện, thu giữ trong túi quần đằng trước bên phải đang mặc của A 01 túi nilon trong suốt bên trong chứa chất tinh thể rắn màu trắng, số tiền 7.750.000đ và 01 điện thoại di động NOKIA màu trắng.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Tuấn A khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 06 tháng 02 năm 2018 A đi xe khách lên thành phố S, mục đích tìm mua ma túy đá về sử dụng. Khoảng 11 giờ cùng ngày A xuống xe tại ngã tư M, thành phố S và gặp một người đàn ông lái xe ôm (không quen biết), A hỏi mua ma túy, rồi đưa cho người đàn ông đó 800.000đ (tám trăm nghìn đồng), khoảng 20 phút sau người đàn ông quay lại đưa cho A 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long bên trong có 01 túi nilon nhỏ chứa ma túy đá. Sau đó, A đi về nhà, đến tối A lấy một ít ma túy ra để sử dụng bằng hình thức hút, số còn lại A để trong túi nilon và cất đi để sử dụng dần. Đến khoảng 15 giờ ngày 07 tháng 02 năm 2018, A đi bộ ra khu vực thôn Z, thị trấn L, mang theo túi nilon chứa số ma túy thì bị Công an huyện Chi Lăng bắt quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 108/KL- PC54 ngày 09/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng có trong túi nilon là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,389gam.

Số tiền 7.750.000đ xác định là tiền của bà Nguyễn Thị I (mẹ đẻ của A) đã đưa cho Nguyễn Tuấn A vào sáng ngày 07/02/2018 để mang trả lại cho anh Trần Xuân Y, là tiền đặt cọc để thuê phòng trọ vì anh Y không thuê nữa; chiếc điện thoại di động NOKIA của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên ngày 18/4/2018 Công an huyện Chi Lăng đã trả lại số tiền 7.750.000đ và chiếc điện thoại cho bà Nguyễn Thị I.

Cáo trạng số 40/CT-VKSCL ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tuấn A đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo khẳng định bị cáo là người sử dụng ma túy trái phép nên một mình thực hiện hành vi phạm tội, không có người giúp sức. Do chiếc điện thoại di động không liên quan đến hành vi phạm tội nên bị cáo đã ủy quyền cho mẹ là bà Nguyễn Thị I nhận lại.

Bà Nguyễn Thị I xác nhận đã được nhận lại số tiền 7.750.000đ của bà và chiếc điện thoại di động của bị cáo.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, đồng thời đánh giá về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu và tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín bên trong có 0,295 gam Methamphetamine sau giám định.

Phần tranh luận: Không ai có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chi Lăng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn Tuấn A đã khai rõ toàn bộ hành vi phạm tội như tại cơ quan Điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cụ thể: Khoảng 10 giờ, ngày 06 tháng 02 năm 2018 Nguyễn Tuấn A lên thành Phố S mua ma túy Methamphetamine của một người đàn ông không quen biết với mục đích để sử dụng dần. Khoảng 15 giờ ngày 07/02/2018 tại thôn Z, thị trấn L, huyện C Nguyễn Tuấn A bị Công an huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang tàng trữ 0,389 gam ma túy Methamphetamine. Như vậy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự của địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy đối với con người và những ảnh hưởng tiêu cực của ma túy đối với mọi mặt của đời sống xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nghiêm trọng, do đó cần xét xử nghiêm minh nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt. Về nhân thân: Bị cáo là người sử dụng ma túy trái phép nên xác định là người có nhân thân xấu. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để được cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội và làm gương cho người khác có hành vi tương tự. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì không có tài sản riêng, không có điều kiện để đảm bảo thi hành án.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho A ở gần ngã tư M, thành phố S. Do không có thông tin cụ thể nên Cơ quan Điều tra không thể tiến hành điều tra, xác minh là có căn cứ.

[7] Việc Cơ quan Điều tra đã trả lại những vật chứng không liên quan đến vụ án cho các chủ sở hữu là có căn cứ. Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Tuấn A còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[8] Cáo trạng số 40/CT-VKSCL ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn A theo tội danh và điều khoản trong Bộ luật Hình sự như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị đối về tội danh, về mức hình phạt đối với bị cáo, về xử lý vật chứng của vụ án là hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tuấn A phải chịu án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 07 tháng 02 năm 2018.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong bên trong có 0,295 gam ma túy Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định). (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21 tháng 5 năm 2018, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tuấn A phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2018/HS-ST ngày 19/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về