Bản án 48/2018/HS-ST ngày 10/07/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 10 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 36/2018/TLS-HS ngày 23 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2018/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Đình H, sinh ngày 28 tháng 9 năm 1990, tại Hải Phòng. ĐKHKTT: Thôn N, xã P, huyện C thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn A, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Đồng Thị C; vợ Đoàn Lệ T có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: bị cáo có 01 tiền sự ngày 15 tháng 5 năm 2013 Công an huyện T, thành phố Hải Phòng xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau ( đã được xóa); bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25 tháng 12 năm 2017; có mặt.

- Bị hại: Anh Ngô Văn G, sinh năm 1982, nơi cư trú: Thôn 2, H, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại: Anh Ngô Văn D, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn 2, H, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt ( có đề nghị xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Q; địa chỉ trụ sở: Số 20 A4 V, phường V, quận N, thành phố Hải Phòng.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Đại H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Số 1A/317B Đ, Quận N, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

- Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1974; Nơi cư trú: Thôn N, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 20 tháng 10 năm 2017, Nguyễn Đình H (có giấy phép lái xe hạng B2) điều khiển xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển số 15A - 021.27 (xe thuê của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ xuất nhập khẩu Q) đi tại làn đường giành cho xe ô tô sát với giải phân cách giữa trên Quốc lộ 5 theo hướng Hải Phòng-Hà Nội với tốc độ khoảng 50- 60km/h. Khi đi đến khu vực km83+300 Quốc lộ 5, thuộc thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng H quan sát phía trước cùng làn có 01 xe ô tô container (chưa rõ đặc điểm, biển số) đi với tốc độ 40-50km/h. Mặc dù phía trước hiện trường về phía Hải Phòng 68m có biển báo “khu vực nguy hiểm các phương tiện giảm tốc độ” và biển báo “giao nhau với đường không ưu tiên bên phải”, nhưng H không chấp hành biển báo mà vẫn đánh lái sang phải, điều khiển xe đi sang làn đường dành cho xe ô tô ở giữa và cho xe tăng tốc lên 80km/h để vượt bên phải xe container. Do không quan sát phần đường bên phải phía trước, nên khi xe ô tô do H điều khiển đi ngang phần giữa xe container, H mới phát hiện phía bên phải cách xe của H khoảng 05m có anh Ngô Văn G, sinh năm 1982, ở thôn H 2, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng đang kéo xe kéo tự chế chở rau bắp cải của chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1974, trú quán: Thôn N, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng đi từ làn đường dành cho xe thô sơ, xe mô tô ra làn đường dành cho xe ô tô. Lúc này, xe ô tô của H đang đi với tốc độ cao nên H không kịp xử lý, đâm thẳng phần đầu bên phải xe ô tô vào anh G và phần phía trước của xe tự chế. Sau đó H nhấn phanh và đánh lái sang phải H xuống xe thấy mọi người đưa anh G đi cấp cứu thì H để xe ô tô tại hiện trường và đến cơ quan Công an đầu thú. Anh G được đưa đi cấp cứu, đến 00 giờ 28 phút cùng ngày thì tử vong, xe ô tô biển số 15A-021.27 bị hư hỏng.

Cơ quan điều tra Công an huyện A đã tiến hành đo nồng độ cồn đối với Nguyễn Đình H, tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và khám các P tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông.

Tại biên bản đo nồng độ cồn và phiếu đo nồng độ cồn của Công an huyện A, thành phố Hải Phòng lập hồi 02 giờ 10 phút ngày 20 tháng 10 năm 2017 xác định: Nồng độ cồn trong hơi thở của Nguyễn Đình H là 1,011 mg/l khí thở (một phẩy không trăm mười một miligam trên lít khí thở).

Tại Bản kết luận giám định số 09/ GĐCH- PC54 ngày 01 tháng 12 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “ Dấu vết trượt mài xước, mất kim loại mầu trắng theo chiều ngược chiều chuyển động tịnh tiến của bánh xe tại cạnh ngoài lazăng bánh trước bên phải xe ô tô BKS 15A - 021.27, phù hợp với dấu vết bẹp lõm kim loại, trượt xước, bám dính tạp chất mầu trắng ( dạng mạt kim loại) theo chiều từ trước về sau, từ trên xuống dưới tại mặt ngoài góc dưới cùng phía sau bên phải xe đẩy tự chế. Phần đường va chạm giữa xe ô tô BKS 15A- 021.27 và xe tự chế thuộc làn đường chiều Hải Phòng – Hà Nội. Không đủ căn cứ xác định tốc độ của xe ô tô BKS 15A- 021.27 trước khi xảy ra va chạm giao thông” Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 231/2017/TT ngày 02 tháng 11 năm 2017 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: “Nạn nhân Ngô Văn G bị tai nạn giao thông chết vì suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp không hồi phục do đa chấn thương: chấn thương sọ não, chấn thương mặt nặng. Máu của nạn nhân không có Ethanol”.

Tại Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình H về tội “ Vi phạm quy định về điều khiển P tiện giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Đình H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo xác định bản thân vi phạm pháp luật, việc điều tra, truy tố, xét xử là đúng người đúng tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội đối với bị cáo. Qua phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển P tiện giao thông đường bộ.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Đình H 36( ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 ( năm) năm tính từ ngày tuyên án về tội “ Vi phạm quy định về điều khiển P tiện giao thông đường bộ”. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về việc vắng mặt người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại và người làm chứng: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại vắng mặt nhưng đã có quan điểm xin vắng mặt tại phiên tòa, những người làm chứng đều vắng mặt. Xét thấy, tại giai đoạn điều tra, người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại và những người làm chứng đã được Cơ quan điều tra lấy lời khai theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên việc vắng mặt của người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại và những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử bị cáo tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại và những người làm chứng theo quy định tại khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[3] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[4] Về áp dụng pháp luật: Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội Bộ luật Hình sự năm 1999 đang có hiệu lực pháp luật, hành vi của bị cáo đã vi phạm Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.

- Về tội danh:

[5] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, người làm chứng, phù hợp với nội dung biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường và biên bản khám nghiệm P tiện, phù hợp với kết luận giám định pháp y về tử thi số 231/2017/ TT ngày 02 tháng 11 năm 2017 của Trung tâm pháp y thành phố Hải Phòng và kết luận giám định số 09/GĐCH - PC ngày 01 tháng 12 năm 2017 và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Đình H đã điều khiển xe ôtô biển số 15A- 021.27 khi tham gia giao thông trên Quốc lộ 5 đoạn thuộc thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng đã không chấp hành biển báo “ khu vực nguy hiểm các P tiện giảm tốc độ” và “ giao nhau với đường không ưu tiên bên phải ”, sử dụng rượu trong khi điều kiển ô tô tham gia giao thông không chấp hành báo hiệu đường bộ vi phạm khoản 8 Điều 8 và khoản 1 Điều 11 Luật giao thông đường bộ đã gây tai nạn hậu quả làm thiệt hại đến tính mạng của anh Ngô Văn G.

Viện Kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội Vi phạm quy định về điều khiển P tiện giao thông đường bộ là có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Đình H phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển P tiện giao thông đường bộ ”, tội phạm được quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[6] Tính chất vụ án nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính mạng của người khác và tài sản. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội do vô ý nên hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết định khung hình phạt:

[7] Tại biên bản do nồng độ cồn và phiếu đo nồng độ cồn của Cơ quan điều tra Công an huyện A, thành phố Hải Phòng lập vào hồi 02 giờ 10 phút ngày 20 tháng 10 năm 2017 xác định: Nồng độ cồn trong hơi thở của Nguyễn Đình H là 1,011mg/l khí thở nên hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[8] Xét về lỗi: Căn cứ vào lời khai người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm các P tiện, sơ đồ hiện trường cho thấy người bị hại trong vụ án cũng có một phần lỗi, trong khi kéo xe tự chế đã điều khiển xe đi từ làn đường dành cho xe thô sơ, xe mô tô ra làn đường dành cho xe ô tô, hậu quả xe ô tô do bị cáo điều khiển đã đâm vào gây tai nạn. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định đây là lỗi hỗn hợp.

- Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[9] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[10] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, Bản thân chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã đã ra đầu thú và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình bị hại, bị hại cũng có một phần lỗi, gia đình bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[11] Xét thấy bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51, có nhiều tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, không vi phạm các điều mà pháp luật cấm, chưa bị kết án... nên không cần thiết buộc bị cáo phải cải tạo cách ly xã hội mà nên áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo được hưởng án treo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và giao bị cáo về cho chính quyền địa P nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa P trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung:

[12] Theo quy định tại khoản 5 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 bị cáo có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc cấm hành nghề, hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Xét tính chất, mức độ tội phạm của bị cáo và hoàn cảnh gia đình của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự và các vấn đề khác:

[13] Sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường 170.000.000đồng cho gia đình bị hại, gia đình bị hại không còn yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

Chiếc xe ôtô biển số 15A-021.27 bị cáo đã điều khiển gây ra tai nạn là của Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ xuất nhập khẩu Q do bị cáo thuê lại. Khi xẩy ra tai nạn một phần đầu xe đã bị hỏng. Bị cáo đã sửa chữa giao lại chiếc xe cho Công ty, đại diện Công ty có quan điểm không còn yêu cầu nào thêm đối với bị cáo. Đối với chiếc xe kéo và số bắp cải bị hư hỏng không đáng kể, chị Nguyễn Thị P không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Do vậy, về trách nhiệm dân sự trong vụ án không còn gì phải xét.

[14] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện A đã trả chiếc xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển số 15A- 021.27 cùng những giấy tờ liên quan cho Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ xuất nhập khẩu Q và trả lại một chiếc xe tự chế cho chị Nguyễn Thị P là chủ sở hữu các tài sản trên quản lý sử dụng.

[15] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 254, 259, 260 và 326 Bộ luật Tố tụng hình sự, Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Nguyễn Đình H 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 ( năm ) năm tính từ ngày tuyên án về tội “Vi phạm quy định về điều khiển P tiện giao thông đường bộ”.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Đình H.

Giao bị cáo Nguyễn Đình H cho Ủy ban nhân dân xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Buộc bị cáo Nguyễn Đình H phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Đình H có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2018/HS-ST ngày 10/07/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:48/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về