TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 48/2018/HS-PT NGÀY 15/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 51/2018/TLPT-HS ngày 19/7/2018 đối với bị cáo Lê Văn M do có kháng cáo của bị cáo Lê Văn M đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 41/2018/HS-ST ngày 08-6-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Bị cáo có kháng cáo: Lê Văn M (tên khác không), sinh ngày: 15/01/1990; Đăng ký thường trú: ấp A, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: lớp 9/12; Con ông: Lê Văn L, sinh năm 1964 và bà: Hoàng Thị O, sinh năm 1967; Anh chị em ruột: có 03 người (lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1993); Vợ: Khưu Ngọc T, sinh năm 1988; Con: Có 01 người, sinh năm 2014; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2018 sau đó chuyển tạm giam. (có mặt)
Những người dưới đây không liên quan đến kháng cáo Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập gồm: Bị cáo Phạm Hoàng A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 03 tháng 01 năm 2018, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Sóc Trăng tiến hành kiểm tra tại khu vực Hẻm 290, khóm M, phường B, thành phố S thì phát hiện Phạm Hoàng A đang điều khiển xe mô tô hiệu Wave biển số xxPx- xxxx, chở Lê Văn M có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra thì phát hiện Lê Văn M có cất giấu trên tay phải 01 mảnh giấy được cuộn lại và dán kín, bên trong là 01 bịch nylon được hàn kín chứa tinh thể rắn màu trắng, nghi vấn là chất ma túy nên đã thu giữ và niêm phong để gửi giám định, đồng thời lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với M và A.
Tại Kết luận giám định số 02/GĐMT-PC54 ngày 05/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, trọng lượng 0,259g, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 41/2018/HS-ST ngày 19-7-2018 của Tòa án nhân dân thành phố S, quyết định:
Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều47; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểma, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[1].Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn M và Phạm Hoàng A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
[2]. Xử phạt bị cáo Lê Văn M 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 01 năm 2018.
[3]. Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng A 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06 tháng 4 năm 2018, nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ 01 ngày (ngày 03 tháng 01 năm 2018).
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng và quyền kháng cáo của các bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
Đến ngày 26/6/2018 bị cáo Lê Văn M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù. Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù
- Đại diện viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng giữ quyền công tố nhà nước đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và áp dụng Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 giữ nguyên quyết định bản ánsơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo được Nhà tạm giữ Công an thành phố S xác nhận vào ngày 20/6/2018 theo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì việc kháng cáo của bị cáo là hợp lệ nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo thì tại phiên tòa bị cáo Lê Văn M thừa nhận hành vi phạm tội của mình như sau: vào khoảng 13 giờ, ngày 03 tháng 01 năm 2018, bị cáo M nhờ bị cáo A chở đến khu vực Hẻm 290 khóm M, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng để mua ma túy về tàng trữ sử dụng chung. Bị cáo Phạm Hoàng A dùng xe mô tô biển số xxPx-xxxx của bị cáo chở bị cáo M đi mua ma túy và bị bắt quả tang thu giữ gói ma túy qua giám định là Methamphetamine, có trọng lượng là 0,259 gam. Lời thừa nhận hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo A, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nên hành vi phạm tội của bị cáo bị cấp sơ thẩm truy tố và xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là chính xác là phù hợp với pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm án của bị cáo: Xét thấy, khi lượng hình cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo; theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ nói trên là chính xác là phù hợp với pháp luật. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không đưa ra được tình tiết nào mới mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng để Hội đồng xét xử xem xét. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên là áp dụng Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm thì bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật vì đơn kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.
[5] Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời gian kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
[1] Không chấp nhận kháng cáo xin giảm án của bị cáo Lê Văn M.
[2] Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên xử: Xử phạt bị cáo Lê Văn M (tên khác không) 02 năm tù (Hai năm tù) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 01 năm 2018.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).
[5] Các phần quyết định khác của quyết định bản án hình sự sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kề từ ngày hết thời gian kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 48/2018/HS-PT ngày 15/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 48/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về