TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH OAI - TP. HÀ NỘI
BẢN ÁN 48/2017/HNGĐ-ST NGÀY 26/12/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 26 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Oai - TP. Hà Nội xét xử công khai vụ án thụ lý số: 225/2017/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp: “Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2017/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2017, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hà thị L, sinh năm 1994. Quê quán: xã T Ph, huyện Đ B, tỉnh H B. Nơi ở: xã T Ph, huyện Đ B, tỉnh H B.
- Bị đơn: Anh Nguyễn V S, sinh năm 1988. Cùng trú tại: Thôn Q M, xã M H, huyện T O, Tp.H. Tại phiên toà chị L, anh S có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn Chị Hà thị L trình bày:
Năm 2012 chị và Anh Nguyễn V S quen biết nhau ở nơi làm việc, khi đó chị đi bán quần áo thời trang, sau khoảng hơn 03 năm tìm hiểu, đến năm 2015 hai người tổ chức cưới theo phong tục địa phương, đăng ký kết hôn tại UBND xã M H, huyện T O, Tp. H ngày 21/10/2015 theo quy định của pháp luật, sau ngày cưới hai vợ chồng cùng chung sống tại thôn Q M,xã M H, huyện T O, vợ chồng sống hạnh phúc được hơn 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn vì nhiều lý do khác nhau, bản thân anh S thiếu sự quan tâm đến vợ và con, mỗi khi vợ chồng mâu thuẫn thì anh S đánh đập chị, chửi bới họ hàng, xúc phạm đến gia đình chị, bản thân anh S không tu chí làm ăn, thích thì làm, không thích thì chơi, từ tháng 10 năm 2017 đến nay hai vợ chồng sống ly thân, trong thời gian đó anh S cũng không quan tâm, không gọi chị về. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, chị đề nghị Toà án giải quyết ly hôn để giải phóng cho cả hai người.
Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có một con chung là Nguyễn V Kh, sinh ngày 06/4/2016 hiện cháu Kh đang do anh S nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị có quan điểm được nuôi cháu Kh và không yêu cầu anh S trợ cấp nuôi con chung, bởi hiện cháu còn nhỏ và hay đau ốm.
Về tài sản chung và công nợ: Không có.
Anh Nguyễn V S trình bày: Về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn như chị L khai nhận là đúng, về nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng không đúng như chị L trình bày. Lý do mâu thuẫn chỉ vì con cái ốm đau, hai vợ chồng không thông cảm với nhau nên có nói nhau, anh nóng giận cũng đánh chị L, chị L đánh lại anh, thì anh tát thêm cái nữa, còn anh không xúc phạm đến gia đình chị L. Kể từ tháng 10/2017 đến nay chị L ra khỏi nhà anh, anh cũng không gọi về lần nào vì anh cho rằng chị L có lỗi thì tự về chứ anh không gọi về, còn tình nghĩa vợ chồng với chị L thì anh không còn nữa, mâu thuẫn vợ chồng còn nhiều vấn đề không giải quyết được. Nay chị L kiện ly hôn, anh không đồng ý ly hôn vì muốn con có cả cha và mẹ.
Về con chung: Như chị L khai nhận, anh và chị có 01 con chung là Nguyễn V Kh, sinh ngày 06/4/2016 hiện cháu Kh đang do anh nuôi dưỡng kể từ tháng 10/2017 đến nay. Khi ly hôn anh xin nhận được nuôi cháu Kh và không yêu cầu chị L trợ cấp nuôi con chung.
Về tài sản chung, công nợ: Anh khai nhận không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà; và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[ 1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà thị L, Anh Nguyễn V S đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã M H, huyện T O, Tp. H ngày 21/10/2015, trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, nên đây là hôn nhân hợp pháp được nhà nước công nhận, nay có yêu cầu ly hôn, cần áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để xem xét giải quyết.
[ 2 ]. Về mâu thuẫn của vợ chồng Hội đồng xét xử nhận định: Trên cơ sở khai nhận của chị L, anh S thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc được 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn do không có sự thông cảm và chia sẻ trong cuộc sống vợ chồng từ đó dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ tháng 10/2017 đến nay. Trong thời gian ly thân anh S cũng không gọi chị về, bản thân anh cũng thừa nhận không còn tình nghĩa vợ chồng, nên chị tự đi thì chị tự về, tại phiên tòa hội đồng xét xử đã tạo điều kiện để anh nói với chị L về vấn đề tìm giải pháp đoàn tụ vợ chồng nhưng anh không có ý kiến gì và không muốn nói với chị L, như vậy chứng tỏ mong muốn đoàn tụ của anh với chị L là không có. Tại phiên tòa chị L giữ nguyên quan điểm ly hôn. Xét mục đích hôn nhân giữa hai anh chị không đạt được nên cần chấp nhận đơn và xử cho chị L ly hôn anh S là phù hợp.
[ 3 ]. Về con chung: Theo trình bày của anh và chị trong thời gian chung sống vợ chồng có con chung là Nguyễn V Kh, sinh ngày 06/4/20.. hiện anh S đang nuôi dưỡng, khi ly hôn cả anh và chị đều có quan điểm nhận nuôi cháu Kh. Hội đồng xét xử nhận thấy hiện cháu Kh chưa đủ 36 tháng tuổi, căn cứ khoản 3 điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần giao cháu Kh cho Chị Hà thị L nuôi dưỡng là phù hợp và đúng pháp luật, chị không yêu cầu anh S trợ cấp nuôi con, nên tạm hoãn việc trợ cấp nuôi con cho anh S cho đến khi các đương sự có yêu cầu mới.
[ 4 ].Về tài sản chung: Không có nên xem xét trong bản án này.
[ 5].Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án thì chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Các Điều: 51, 53,54, 56, 81,82,83,84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 điề 227, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.
1 - Xử: Chị Hà thị L, Anh Nguyễn V S được ly hôn.
2 -Về con chung: Giao cháu Nguyễn V Kh, sinh ngày 06/4/20.. cho Chị Hà thị L chăm sóc, nuôi dưỡng; tạm hoãn việc trợ cấp nuôi con cho anh S cho đến khi các bên đương sự có yêu cầu và sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác.Anh Nguyễn V S có quyền thăm hỏi, chăm sóc con chung không ai được cản trở.
3 - Về tài sản chung và công nợ: không xem xét trong bản này.
4 - Về án phí: Chị Hà thị L phải chịu: 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 000.... ngày 04 tháng 12 năm 2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Oai.
Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 26/12/2017.
Bản án 48/2017/HNGĐ-ST ngày 26/12/2017 về ly hôn
Số hiệu: | 48/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Oai - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về