Bản án 473/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 473/2019/HS-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 450/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 450/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Triệu Thị Anh Đ (tên gọi khác: không), sinh năm 1976, tại tỉnh H; Nơi đăng ký thường trú: số 77A, khu phố 4, phường Tr, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: số 1F, khu phố 6, phường Tr, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Triệu Thành L, sinh năm 1945 và bà Hà Thị Thu H, sinh năm 1945; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Có chồng là Nguyễn Tiến D, sinh năm 1971 (đã ly thân); Có 02 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/4/2019; sau đó, chuyển tạm giam từ ngày 28 - 4 - 2019 đến nay tại Nhà Tạm giữ – Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

2. Phí Ngọc H (tên gọi khác: không), sinh năm 1997, tại tỉnh G; Nơi đăng ký thường trú: khối phố 2, thị trấn I, huyện I, tỉnh G; Nơi cư trú: không nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông Phí Ngọc Th, sinh năm 1972 và bà Phạm Thị Th, sinh năm 1978; Chưa có vợ con; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.

Tiền án: Ngày 18/9/2017 Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 (Bản án số 399/2017/HSST ngày 18/9/2017). Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 10/7/2018.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/4/2019; sau đó, chuyển tạm giam từ ngày 28 - 4 - 2019 đến nay tại Nhà Tạm giữ – Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Triệu Thị Anh Đ: Ông Nguyễn Huy Hợi– Luật sư Văn phòng luật sư Trấn Biên - Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Hành vi phạm tội của Triệu Thị Anh Đ:

Lúc 20h00 ngày 21/4/2019, tại nhà trọ số 1F, khu phố 6, phường Tr, thành phố B, Đồng Nai, Triệu Thị Anh Đ gặp người đàn ông tên Sang (chưa rõ lai lịch địa chỉ). Qua nói chuyện, Sang biết Đ có sử dụng ma túy tổng hợp (hàng đá). Sang bán cho Đ 01 gói ma túy tổng hợp giá 5.000000 đồng (năm triệu đồng) khi nào có tiền thì Đ trả cho Sang. Sau khi mua, Đ lấy một phần ma túy sử dụng, phần còn lại Đ cất giấu để bán cho người khác thu hồi vốn.

Đến lúc 00 giờ 05 phút ngày 22/4/2019, Đ bán cho Phí Ngọc H 01 gói ma túy tổng hợp với giá 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng). Đến lúc 05 giờ 00 ngày 22/4/2019, Đ đang cất giấu 01 gói ma túy tổng hợp để trong hộp nhựa trên gác phòng trọ thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang.

- Hành vi phạm tội của Phí Ngọc H:

Lúc 03 giờ 30 phút ngày 22/4/2019, tại đường nội bộ khu phố 5, phường Tr1, thành phố B, Phí Ngọc H đang cất giấu 06 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) trong gói thuốc lá Zét để trên gác ba ga xe mô tô của H đang điều khiển thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi bị bắt, H khai nhận: trước đó, vào lúc 00 giờ 05 phút ngày 22/4/2019, H đã gọi cho Triệu Thị Anh Đ qua số điện thoại 0933746658 hỏi mua ma túy tổng hợp để sử dụng. Đ nhận điện thoại của H đồng ý bán cho H 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, H đem gói ma túy về ghế đá nơi vắng người qua lại tại khu phố 5, phường Tr1, thành phố B chia thành 06 gói nhỏ cất giấu mục đích để sử dụng thì bị bắt.

- Thu giữ của Triệu Thị Anh Đ:

+ 01 hộp nhựa bên trong có chứa tinh thể màu trắng;

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo có Imel 86960234117617, số thuê bao 0933746658.

- Thu giữ của Phí Ngọc H:

+ 06 (sáu) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng;

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia có Imel 352407056223234, số thuê bao 0372330133;

+ số tiền 250.000 đồng;

+ 01 xe mô tô biển số 60L1-3704, số máy 310699205, số khung 10010699205.

Quá trình điều tra, Triệu Thị Anh Đ, Phí Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội như trên.

- Tại Kết luận giám định số 308/PC09-GĐMT ngày 26/4/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Đối tượng giám định trong phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn có chữ ký ghi họ tên của Triệu Thị Anh Đ: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 10,0630 gam, loại Methamphetamine (Bút lục số 12).

- Tại Kết luận giám định số 307/PC09-GĐMT ngày 26/4/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Đối tượng giám định trong phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn chữ ký của Phí Ngọc H: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,7977 gam, loại Methamphetamine (Bút lục số 06).

Bản cáo trạng số: 447/CT-VKSBH-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Triệu Thị Anh Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); truy tố bị cáo Phí Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm i khoản 2, Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Triệu Thị Anh Đ từ 07 năm - 08 năm tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Phí Ngọc H từ 12 - 18 tháng tù.

Xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Luật sư Nguyễn Huy Hợi - Người bào chữa cho bị cáo Triệu Thị Anh Đ phát biểu quan điểm:

Về tội danh: Thống nhất với cáo trạng của Viện kiểm sát.

Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân của bị cáo Đ và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, đang nuôi 02 con ăn học, cha của bị cáo là thương binh bị nhiễm chất độc màu da cam, tham gia kháng chiến chống Mỹ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt, cho bị cáo có cơ hội sửa chữa, cải tạo bản thân trở thành một công dân có ích cho xã hội, chăm sóc cha mẹ già và các con, thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Quá trình điều tra các bị cáo không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Triệu Thị Anh Đ là đối tượng nghiện ma túy. Sau khi mua ma túy về sử dụng, lúc 05 giờ 00 ngày 22/4/2019 tại phòng trọ số 1F, khu phố 6, phường Tr, thành phố B, Triệu Thị Anh Đ đang cất giấu 10,0630 gam, loại Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 308/PC09-GĐMT ngày 26/4/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai) để trong hộp nhựa trên gác phòng trọ nhằm mục đích bán thu hồi vốn thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Biên Hòa phát hiện bắt giữ. Trước đó, Triệu Thị Anh Đ đã 01 lần bán ma túy cho Phí Ngọc H với giá 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng).

Vào lúc 03h 30 phút ngày 22/4/2019, tại đường nội bộ khu phố 5, phường Tr1, thành phố B, Phí Ngọc H có hành vi tàng trữ 0,7977 gam, loại Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 307/PC09-GĐMT ngày 26/4/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai) trong gói thuốc lá Zét để trên gác ba ga xe mô tô do H đang điều khiển thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Biên Hòa phát hiện bắt giữ.

Như vậy, bị cáo Triệu Thị Anh Đ đã có hành vi mua bán chất Methamphetamine, bị cáo Phí Ngọc H đã có hành vi tàng trữ Methamphetamine, đây là chất ma túy nằm trong danh mục các chất cấm theo quy định của Chính phủ. Hành vi của bị cáo Triệu Thị Anh Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi của bị cáo Phí Ngọc H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố và viện dẫn.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự, trị an và an ninh xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước Việt Nam về đấu tranh phòng ngừa và loại bỏ ma túy ra khỏi cuộc sống xã hội. Do đó cần có một mức án tương xứng với mức độ, tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo mới giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Triệu Thị Anh Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo Phí Ngọc H có tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên đã phạm vào tình tiết “tái phạm” theo điểm h Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Triệu Thị Anh Đ có cha ruột là thương binh, tham gia kháng chiến chống Mỹ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hi đồng xét xử xét thấy bị cáo Triệu Thị Anh Đ có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, đang bị bệnh hở van tim (có bệnh án của Bệnh viện đa khoa Đồng Nai) do đó Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi quyết định hình phạt. Đối với bị cáo Phí Ngọc H, đã có tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân, sau khi ra tù lại tiếp tục phạm tội nên cần xem xét mức hình phạt tương xứng nhằm mục đích răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Đi với nam thanh niên tên Sang (không rõ lai lịch) có hành vi bán ma túy cho Triệu Thị Anh Đ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là đúng quy định.

[3] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Buộc bị cáo Triệu Thị Anh Đ nộp 500.000 đồng tiền thu lợi bất chính.

- Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Oppo có Imel 86960234117617, số thuê bao 0933746658 của bị cáo Triệu Thị Anh Đ; 01 điện thoại di động hiệu Nokia có Imel 352407056223234, số thuê bao 0372330133 của bị cáo Phí Ngọc H sử dụng vào việc phạm tội.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 250.000 đồng của bị cáo Phí Ngọc H để đảm bảo thi hành án.

Đi với xe mô tô biển số 60L1-3704 hiệu SAVI, số máy FMG-310699205, số khung FN10010699205, do Phí Ngọc H mượn của người đàn ông tên Hải không rõ nhân thân lai lịch. Qua xác minh xe mô tô này do bà Nguyễn Thị L, ngụ tại C6, tổ 4, khu phố 1, phường Trảng Dài, Biên Hòa, Đồng Nai đứng tên chủ sở hữu. Bà L khai đã bán cho một người đàn ông khoảng 30 tuổi năm 2014 (không nhớ tên và địa chỉ của người mua). Do chưa xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tách ra tiếp tục làm rõ xử lý sau là đúng quy định.

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, các bị cáo, những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội danh là phù hợp. Về hình phạt: đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Triệu Thị Anh Đ là phù hợp nên được chấp nhận. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Phí Ngọc H là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của người bào chữa cho bị cáo Đ: phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của các bị cáo sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Triệu Thị Anh Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Triệu Thị Anh Đ 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ 22-4-2019.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Phí Ngọc H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ 22-4-2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước các vật chứng là công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, cụ thể:

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo có Imel 86960234117617, số thuê bao 0933746658 của bị cáo Triệu Thị Anh Đ;

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia có Imel 352407056223234, số thuê bao 0372330133 của bị cáo Phí Ngọc H.

(Tt cả các vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/10/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

- Buộc bị cáo Triệu Thị Anh Đ nộp 500.000 đồng tiền thu lợi bất chính.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 250.000 đồng của bị cáo Phí Ngọc H để đảm bảo thi hành án. (Vật chứng là số tiền nêu trên được thể hiện tại Biên lai thu tiền số 009812 ngày 03/10/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Triệu Thị Anh Đ, Phí Ngọc H mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 473/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:473/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về