Bản án 47/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2019/TLST- HS, ngày 12 tháng 11 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 45/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Đức T, sinh năm 1987 tại Nam Định; nơi ĐKNKTT và nơi ở hiện nay: xóm 3, xã K, huyện V, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 4/12; con ông: Trần Đức N, sinh năm 1956; con bà: Nguyễn Thị K, sinh năm 1958; có vợ là Triệu Thị H, sinh năm 1988, đã ly hôn năm 2016; có 02 con; Con gái: Trần Thị Diễm Q, sinh năm 2007 ở với mẹ, con trai Trần Đức T, sinh năm 2009 hiện đang ở với bố; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 16-9-2004 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 16 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 329/ HS-ST ngày 16-9-2004. Đã chấp hành xong ngày 06-9-2005; ngày 21- 8-2020 trộm cắp tài sản, Công an huyện V ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 1.500.000đ theo quyết định số 136 ngày 10-9-2020. T đã chấp hành xong.

Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 03-7- 2020 theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 45 ngày 03-7-2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V. Bị bắt tạm giam từ ngày 31-8-2020 cho đến ngày hôm nay; “có mặt”.

Người tham gia tố tụng khác:

* Bị hại:

1. Chị Đặng Thị H, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện V, tỉnh Nam Định; “có mặt”.

2. Anh Phạm Duy M, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện V, tỉnh Nam Định; “có mặt”.

* Người làm chứng:

1. Anh Trần Đức S, sinh năm 1990; “có mặt”.

2. Anh Trần Anh D, sinh năm 1992; “vắng mặt”. Đều trú tại: Xóm 3, xã K, huyện V, tỉnh Nam Định.

3. Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn K, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng ngày 08,09-5-2020, Trần Đức T đặt mua 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone SX Max màu trắng qua mạng xã hội Facebook với giá tiền 4.950.000đ (Bốn triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi nhận điện thoại và sử dụng, T phát hiện chiếc điện thoại trên có đặc điểm bên ngoài giống mẫu mã của điện thoại di động Iphone SX Max nhưng không phải hàng chính hãng do Apple sản xuất, chất lượng và giá thành thấp hơn nhiều so với hàng chính hãng cùng chủng loại.

Ngày 13-5-2020,T đi một mình đến cửa hàng điện thoại di động “Mạnh PK” ở ngã tư đồng đội, xã M, huyện V, tỉnh Nam Định của anh Phạm Duy M và vợ là chị Đặng Thị H để hỏi thủ tục mua trả góp điện thoại di động. Tại đây T hỏi mua trả góp chiếc điện thoại di động Iphone SX Max màu trắng chính hãng của cửa hàng, nhưng do T nằm trong danh sách nợ xấu của hệ thống trả góp nên bị cửa hàng từ chối.

Sau khi rời khỏi cửa hàng, nhận thấy chiếc điện thoại di động Iphone SX Max màu trắng chính hãng của cửa hàng có đặc điểm bên ngoài không khác gì chiếc điện thoại di động mà T đã mua trước đó, giá thành lại cao hơn hẳn, nên T nảy sinh ý định quay lại cửa hàng điện thoại “Mạnh PK”, lợi dụng chủ quán sơ hở sẽ tráo đổi điện thoại và mang chiếc điện thoại di động chính hãng của cửa hàng về sử dụng.

Thực hiện ý định trên, khoảng 15h ngày 16-5-2020, T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER BKS 18C1-288.24 của mình trở lại cửa hàng điện thoại di động “Mạnh PK”. Lúc này trong quán chỉ có chị Đặng Thị H đang đứng bán hàng. T vào trong cửa hàng đưa chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HuaWei 7 và bảo chị H dán kính cường lực màn hình điện thoại. Chị H đồng ý và cầm chiếc điện thoại T đưa, sau đó T tiếp tục đề nghị chị H cho xem chiếc điện thoại di động Iphone SX Max màu trắng số sê ri F2LXP7TQKPHD, số IMEI 357278099021074, số máy: MT6G2LL/A đang để trong tủ kính của cửa hàng. Chị H đưa chiếc điện thoại này cho T xem rồi quay sang dán kính cường lực điện thoại cho T. Lợi dụng lúc chị H không để ý, T dùng tay trái rút chiếc điện thoại di động có đặc điểm bên ngoài giống hệt chiếc điện thoại di động Iphone SX Max màu trắng của cửa hàng mà T đã mua trước đó đưa lên trên mặt tủ kính, tay phải cầm chiếc điện thoại di động chính hãng của cửa hàng rồi nhanh chóng đảo 2 chiếc điện thoại sang 2 tay rồi dùng tay trái cất chiếc điện thoại chính hãng của cửa hàng vào túi quần bên trái. Sau khi đã lấy được điện thoại, T đưa lại cho chị H chiếc điện thoại của T. Chị H không phát hiện ra việc điện thoại đã bị tráo đổi nên không nghi ngờ gì và cất điện thoại vào tủ. Sau đó T nhận lại chiếc điện thoại HuaWei 7 đã dán cường lực từ chị H, trả tiền dán kính và rời khỏi cửa hàng. Trên đường về, sợ bị chủ cửa hàng phát hiện và đuổi theo nên T đã cởi áo để tránh bị phát hiện. Đến sáng ngày 18-5-2020, sau khi phát hiện ra chiếc điện thoại của cửa hàng đã bị tráo đổi chị Đặng Thị H đã trình báo Công an xã M, huyện V, tỉnh Nam Định và giao nộp lại cho Công an chiếc điện thoại mà Trần Đức T đã dùng để tráo đổi lấy chiếc điện thoại của cửa hàng.

Sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại di động Iphone SX Max màu trắng chính hãng của chị Đặng Thị H- chủ cửa hàng điện thoại di động “Mạnh PK”, T mang chiếc điện thoại về sử dụng cá nhân. Ngày 19-5-2020 sau khi vụ việc bị phát hiện, T đã nhờ em trai là Trần Đức S mang chiếc điện thoại trên đến trả lại cho chị Đặng Thị H. Sau khi nhận được điện thoại, chị H đã giao nộp lại cho Công an xã M, huyện V.

Ngày 19-5-2020 Công an xã M, huyện V, tỉnh Nam Định đã bàn giao toàn bộ vật chứng và các tài liệu liên quan đến vụ việc trên cho cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V để điều tra giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 04-6-2020, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện V đã kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone SX Max màu trắng mà Trần Đức T chiếm đoạt của cửa hàng điện thoại di động “Mạnh PK” có trị giá là 13.500.000đ (Mười ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra Trần Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 49/CT-VKSVB ngày 11-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố Trần Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Đức T đã thành khẩn khai nhận về toàn bộ hành vi của mình như nội dung nêu trên và xin được giảm nhẹ hình phạt. Bị hại xin được giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Đức T về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ vào khoản 1 điều 174; điểm b, điểm s khoản 1 điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Đức T từ 07 đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31-8-2020.

- Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự, đề nghị:

+Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, mặt sau có lo go hình quả táo khuyết, phía dưới có dòng chữ IPHONE, viền và mặt sau màu trắng, có đặc điểm bên ngoài giống điện thoại di động nhãn hiệu Iphone SX Max nhưng không phải do chính hãng Apple sản xuất, số IMEI: 355515065441477, số seri: G6TVL1E3JCLE, số máy: MQA522P/A, máy cũ đã qua sử dụng:

+ Trả lại cho bị cáo: 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER sơn màu trắng đỏ BKS 18C1-288.24; 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy số 019381 xe mô tô BKS 18C1-288.24 tên chủ xe Trần Đức T, địa chỉ: Xóm 3, xã K, huyện V, tỉnh Nam Định; 01 quần ngố màu đen xám; 01 áo sơ mi dài tay, kẻ ô màu xám và đen:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa; lời khai của bị hại và của những người làm chứng; bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ để kết luận:

Chiều ngày 16-5-2020 tại cửa hàng điện thoại di động “Mạnh PK” của anh Phạm Duy M và vợ là chị Đặng Thị H ở ngã tư đồng đội, xã M, huyện V, tỉnh Nam Định; Trần Đức T đã có hành vi nói dối chị H xem điện thoại Iphone SX Max màu trắng số sê ri F2LXP7TQKPHD, số IMEI 357278099021074, số máy: MT6G2LL/A sau đó lợi dụng lúc chị H đang dán kính cường lực T đã tráo đổi chiếc điện thoại Iphone SX Max màu trắng mà T mua qua mạng xã hội Facebook với giá 4.950.000đ để lấy 01 chiếc điện thoại di động Iphone SX Max màu trắng số sê ri F2LXP7TQKPHD, số IMEI 357278099021074, số máy: MT6G2LL/A của cửa hàng với giá 13.500.000đ, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Như vậy với hành vi gian dối để chiếm đoạt chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone SX Max màu trắng trị giá 13.500.000đ để sử dụng cho bản thân của bị cáo Trần Đức T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Đức T đã xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

 Về nhân thân: Bị cáo Trần Đức T, ngày 16-9-2004 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 16 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 21-8-2020 trộm cắp tài sản, Công an huyện V ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, tuy đây không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự nhưng cũng là tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình lượng hình.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo T đã tự nguyện khắc phục hậu quả trả lại chiếc điện thoại di động đã chiếm đoạt cho chủ cửa hàng điện thoại di động “ Mạnh PK” do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự; quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự.

[5] Về đường lối xử lý hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; Hội đồng xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 28-6-2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone SX Max màu trắng số sê ri F2LXP7TQKPHD, số IMEI 357278099021074, số máy: MT6G2LL/A cho chị Đặng Thị H, chị H. Anh M, chị H xác định chiếc điện thoại là tài sản chung của vợ chồng, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, mặt sau có lo go hình quả táo khuyết, phía dưới có dòng chữ IPHONE, viền và mặt sau màu trắng, có đặc điểm bên ngoài giống điện thoại di động nhãn hiệu Iphone SX Max nhưng không phải do chính hãng Apple sản xuất, số IMEI: 355515065441477, số seri: G6TVL1E3JCLE, số máy: MQA522P/A, máy cũ đã qua sử dụn, đây là điện thoại bị cáo đã sử dụng để tráo đổi chiếc điện thoại Iphone SX Max màu trắng số sê ri F2LXP7TQKPHD, số IMEI 357278099021074, số máy: MT6G2LL/A, xác định là tài sản liên quan đến hành vi phạm tội do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Các vật chứng còn lại là 01 quần ngố màu đen xám; 01 áo sơ mi dài tay, kẻ ô màu xám và đen; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER sơn màu trắng đỏ BKS 18C1-288.24; 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy số 019381 xe mô tô BKS 18C1-288.24 tên chủ xe Trần Đức T, địa chỉ: Xóm 3- K- V- Nam Định, xác định là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội do đó cần trả lại cho bị cáo T.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1, Điều 174; điểm b, điểm s, khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Trần Đức T 07 (Bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31-8-2020.

2. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần Đức T.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu hóa giá xung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, mặt sau có lo go hình quả táo khuyết, phía dưới có dòng chữ IPHONE, viền và mặt sau màu trắng, có đặc điểm bên ngoài giống điện thoại di động nhãn hiệu Iphone SX Max nhưng không phải do chính hãng Apple sản xuất, số IMEI: 355515065441477, số seri: G6TVL1E3JCLE, số máy: MQA522P/A, máy cũ đã qua sử dụng, đây là điện thoại bị cáo đã sử dụng để tráo đổi chiếc điện thoại  Iphone SX Max màu trắng số sê ri F2LXP7TQKPHD, số IMEI 357278099021074, số máy: MT6G2LL/A.

- Trả lại cho bị cáo Trần Đức T:

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER sơn màu trắng đỏ BKS 18C1-288.24.

+ 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 019381 xe mô tô BKS 18C1- 288.24 tên chủ xe Trần Đức T, địa chỉ: Xóm 3- K- V- Nam Định.

+ 01 chiếc quần ngố màu đen xám:

+ 01 chiếc áo sơ mi dài tay, kẻ ô màu xám và đen:

(Vật chứng có số lượng, đặc điểm, chủng loại theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13-11-2020 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện V với Công an huyện V).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Đức T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về