TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 50/2020/TLST-HS ngày 01/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2020/QĐXXST-HS ngày 15/9/2020 đối với bị cáo:
Trần Công A, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1989 tại Quảng Bình; Nơi cư trú: Tổ dân phố Thuận B, phường Quảng T, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Mạnh H và bà Ma Thị H; có vợ là Võ Thị Thu H và chưa có con; Nhân thân: Sinh ra và lớn lên được bố mẹ nuôi cho ăn học đến lớp 10/12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình và sinh sống tại địa phương. Ngày 28/12/2012, tàng trữ trái phép chất ma túy bị Công an huyện Quảng Trạch xử phạt hành chính; Ngày 18/02/2013, sử dụng trái phép chất ma túy bị Chủ tịch UBND huyện Quảng Trạch ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Quảng Bình cai nghiện bắt buộc, đến ngày 30/7/2015 chấp hành xong; Năm 2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”; Năm 2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Thi hành án tại Trại giam Đồng Sơn đến ngày 11/02/2020, trở về địa phương cho đến ngày phạm tội; Tiền án: Năm 2017, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” tại bản án số 38/2017/HSPT ngày 15/6/2017; Năm 2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” tại bán án số 36/2018/HSST ngày 28/11/2018; tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Ba Đồn từ ngày 15/04/2020 cho đến nay. Theo lệnh trích xuất, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 15/4/2020, tại đường Quốc Lộ 1A (Đoạn đường đối diện UBND phường Quảng T) thuộc địa phận TDP Minh L, phường Quảng T, thị xã Ba Đ, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Quảng Bình phối hợp cùng Lực lượng Công an thị xã Ba Đồn và Đội kiểm soát Hải quan tỉnh Quảng Bình đã phát hiện, bắt quả tang Trần Công A, sinh năm 1989, trú tại TDP Thuận B, phường Quảng T, thị xã Ba Đ có hành vi tàng trữ trái phép 20 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược được gói trong 01 gói giấy bạc (nghi ma túy). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tang vật liên quan.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã ra Lệnh khám xét số 24 ngày 15 tháng 4 năm 2020, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Công Anh. Kết quả khám xét đã thu giữ: 92 viên nén hình tròn, dạng thuốc tân dược bọc trong gói nilon màu xanh để dưới gầm giường ngủ của phòng ngủ Trần Công Anh (trong đó 90 viên màu hồng; 02 viên màu xanh). Ngoài ra còn thu giữ một số đồ vật liên quan.
Tại Bản kết luận giám định số 624/GĐ-PC09 ngày 21 tháng 4 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận 110 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược là chất ma túy Methamphetanmine, có tổng khối lượng là 11,238g; 02 viên nén hình tròn, màu xanh, dạng thuốc tân dược không phải là chất ma túy, có khối lượng 0,177g. Methamphetanmine nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự 323, danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Về nguồn gốc ma túy Trần Công A khai nhận vào ngày 13 tháng 4 năm 2020, A đi xe mô tô đến khu vực ngã ba Bắc L thuộc phường Bắc L, thành phố Đồng H, tỉnh Quảng Bình gặp một người thanh niên tên thường gọi là “Nhỏ” và hỏi mua từ người này 198 viên ma túy với giá 700.000 đồng. Số ma túy này, Anh đưa về cất giấu ở nhà để sử dụng.
Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã thu giữ:
110 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược; 02 viên nén hình tròn, màu xanh, dạng thuốc tân dược. Sau giám định được niêm phong bằng một phong bì thư dán kín, số 857/GĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ghi “mẫu kí hiệu A1, A2A và A2B” bên trong có chứa 1,802 g, Mẫu ký hiệu A1, 8,892 g Mẫu ký hiệu A2A và 0,114g Mẫu ký hiệu A2B cùng võ bao gói sau giám định; 01(Một) khẩu súng bằng kim loại màu sáng, dài 22cm, phía trên nòng súng có dòng chữ PIETRO BERTTA GARDONNE VT MADE IN ITALY BER50857 TYPE MA9A1 thu giữ tại phòng ngũ của Trần Công Anh; 01 xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI, biển kiểm soát 73C1-180.19; 13.000.000 tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 con dao; 03 điện thoại di động (nhãn hiệu Sam sung, Nokia, Iphone) và 02 sim điện thoại di động.
Quá trình điều tra ngày 03 tháng 7 năm 2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 36 trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI, biển kiểm soát 73C1-180.19; 13.000.000 tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 con dao dài khoảng 47 cm, cán bằng kim loại bộc gổ dài khoảng 17cm, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 30cm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung, màu vàng, số IMEI 1: 357931092075535/01, IMEI2: 357932092075533/01;
01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh, số Serial: 357338080057006 bên trong có 01 sim điện thoại có số thuê bao 0868.184.131; 01 điện thoại di động nhãn hiệuIphone, màu trắng, số IMEI: 355876063169050 cho ông Trần Mạnh H (Bố bị can A) và chị Võ Thị Thu H (Vợ bị can A) là chủ sở hữu, do không liên quan đến vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 51/CT-VKSTXBĐ ngày 31 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình đã truy tố bị cáo Trần Công A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g, n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g, n khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51, của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Công A từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (sáu) năm tù.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Công A nhất trí như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố và phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, đồng thời xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn, Điều tra viên, cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hay khiếu nại gì.
[2] Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Công A đều thừa nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Trần Công A đã tàng trữ 11, 238 gam chất ma túy Methamphetanmine. Xét thấy diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo khai nhận tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ được thu thập tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa; loại ma túy bị cáo tàng trữ là Methamphetanmine khối lượng 11,238 gam nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự: 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.” Vì vậy, quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đối với bị cáo là có cơ sở. Như vậy, đã có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận: bị cáo Trần Công A đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g, n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến các quy định của Nhà nước trong việc quản lý, kiểm soát các chất kích thích, gây nghiện, gây hoang mang, lo sợ cho người dân trên địa bàn. Bị cáo biết việc tàng trữ ma túy là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện, mặt khác bị cáo là người có nhân thân xấu, có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản, mới chấp hành hình phạt tù trở về địa phương thì tiếp tục phạm tội, bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hình sự, nhằm đảm bảo răn đe, giáo dục và mang tính phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[5] Về hình phạt: Hội đồng xét xử thấy, hành vi của bị cáo ở mức độ nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân xấu nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và giáo dục chung.
[6] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy:
01 phong bì thư dán kín, số 857/GĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ghi “mẫu kí hiệu A1, A2A và A2B” bên trong có chứa 1,802 g, Mẫu ký hiệu A1, 8,892 g Mẫu ký hiệu A2A và 0,114g Mẫu ký hiệu A2B cùng võ bao gói sau giám định.
[7] Trong vụ án này, quá trình khám xét nơi ở Cơ quan điều tra còn thu được 01(Một) khẩu súng bằng kim loại màu sáng, dài 22cm, phía trên nòng súng có dòng chữ PIETRO BERTTA GARDONNE VT MADE IN ITALY BER50857 TYPE MA9A1 thu giữ tại phòng ngũ của Trần Công A. Tuy nhiên, theo kết quả giám định số 857/GĐ-PC09 ngày 10/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình thì khẩu súng trên thuộc đồ chơi nguy hiểm. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã chuyển cho Công an thị xã Ba Đồn xử lý hành chính theo thẩm quyền.
Đối với đối tượng tên “Nhỏ” người bán ma túy cho Trần Công A tại khu vực ngã ba Bắc L thuộc phường Bắc L, thành phố Đồng H, tỉnh Quảng Bình, Cơ quan điều tra đã xác minh, nhưng do không có lai lịch, địa chỉ cụ thể nên không có kết quả. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, xử lý sau khi có kết quả
[8] Về án phí: Bị cáo Trần Công A phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm g, n khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Công A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Công A 05(năm) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 15/04/2020.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Công A 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.
3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín, số 857/GĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ghi “mẫu kí hiệu A1, A2A và A2B” bên trong có chứa 1,802 g, Mẫu ký hiệu A1, 8,892 g Mẫu ký hiệu A2A và 0,114g Mẫu ký hiệu A2B cùng võ bao gói sau giám định.
(Tất cả có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an thị xã Ba Đồn và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn ngày 31/8/2020).
4. Về án phí: Bị cáo Trần Công A phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 47/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 47/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về