Bản án 47/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 18/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 03 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh ngày 20 tháng 4 năm 1990, tại tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: Tổ 15, thị trấn H, huyện T, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Xe thồ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Con ông Lê Văn L (sinh năm 1971) và bà Ngô Thị Thu T (sinh năm 1971).

Bị cáo đang tại ngoại (bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú). (Có mặt).

- Bị hại:

1. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) H; Địa chỉ: Số 452 đường T, phường X, quận T, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Quang K; Chức vụ: Giám đốc; Trú tại: Số 37 T, phường T, quận H, thành phố Đ (Vắng mặt).

2. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Thương mại và Dịch vụ T; Địa chỉ trụ sở: Số 16 đường B, phường T, quận T, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật: Bà Đỗ Thị Mỹ C; Chức vụ: Giám đốc; Địa chỉ: Số 167 đường Ô, phường T, quận H, thành phố Đ (Vắng mặt).

3. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Q; Địa chỉ trụ sở: Số 185 đường C, phường A, quận T, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Đình L; Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc (Vắng mặt).

4. Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ (TNHH TM & DV) Đ; Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Thành T; Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc; Địa chỉ: Số 676 đường T, phường H, quận C, thành phố Đ (Vắng mặt).

5. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV) P; Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Thị D; Chức vụ: Giám đốc; Địa chỉ: Số 02 đường T, phường H, quận T, thành phố Đ (Vắng mặt).

6. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) T; Người đại diện theo pháp luật: Bà Dương Thị Mỹ T; Chức vụ: Giám đốc; Địa chỉ: Số 223 đường C, phường A, quận T, thành phố Đ (Vắng mặt).

7. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) T; Địa chỉ trụ sở: K254/09 đường Nguyễn Phước N, phường A, quận T, thành phố Đ. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Ngọc T; Chức vụ: Giám đốc; Địa chỉ: Số K153/9 đường Trần Xuân L, phường H, quận T, thành phố Đ (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Dương Hải H, trú tại: Số 35 đường Ngô Thì N, quận L, thành phố Đ (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu xài cá nhân, Lê Văn T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bằng cách lợi dụng thời điểm đêm khuya vắng, thiếu cảnh giác của chủ sở hữu tài sản, T chuẩn bị sẵn 01 cưa cầm tay bằng kim loại, 02 bao tời màu trắng, 01 sợi dây su, 01 sợi dây vải rồi điều khiển xe mô tô đi dọc trên các tuyến đường trên địa bàn quận Thanh Khê tìm kiếm các xe ô tô chở hàng hóa đang đậu đỗ ở ngoài đường, rồi dùng cưa sắt cắt ổ khóa, trộm cắp những hàng hóa trong xe ô tô rồi chở về phòng trọ tại tổ 10, phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng cất giấu. Sau khi trộm cắp được tài sản, T đem bán lại cho các cửa hàng tạp hóa (Không rõ địa chỉ cụ thể).

Từ tháng 3/2019 đến tháng 9/2019, T đã thực hiện 09 (chín) vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Thanh Khê. Cụ thể:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 22 tháng 3 năm 2019, T điều khiển xe mô tô (Xe mô tô T thuê nhưng không rõ địa điểm, không rõ biển số xe) đến trước kho hàng của Công ty TNHH H tại Lô 13-14-15 đường Huỳnh Ngọc Huệ, phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Tại đây T dùng cưa sắt cắt ổ khóa cửa xe ô tô tải thùng BKS 43C-036.12 rồi trộm cắp được 06 thùng sữa Cô gái Hà Lan. Sau đó T đem bán và thu được số tiền 1.600.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân và trả nợ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 235 ngày 23/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản xác định 06 thùng sữa Cô gái Hà Lan cao khỏe trị giá 1.800.000 đồng (tài sản chưa thu hồi được).

- Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ ngày 26 tháng 03 năm 2019, T điều khiển xe mô tô (Xe mô tô T thuê nhưng không rõ địa điểm, không rõ biển số xe) đến trước kho hàng của Công ty TNHH H. Tại đây T tiếp tục phá ổ khóa của xe ô tô tải thùng BKS 43C-036.12 rồi lấy đi 04 thùng sữa Cô gái Hà Lan, 04 thùng sữa Yomost cam và một thùng sữa đặc Hoàn Hảo. Sau đó T mang bán thu được số tiền 2.800.000 đồng và dùng để tiêu xài cá nhân, trả nợ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 235 ngày 23/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản xác định 04 thùng sữa Cô gái Hà Lan, 04 thùng sữa Yomost cam và một thùng sữa đặc Hoàn Hảo có tổng trị giá là 5.800.000 đồng (Tài sản chưa thu hồi được).

- Vụ thứ ba: Khoảng 01 giờ ngày 04 tháng 4 năm 2019, T điều khiển xe mô tô (Xe mô tô T thuê nhưng không rõ địa điểm, không rõ biển số xe) đến trước kho hàng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ (TNHH TM &DV) T tại địa chỉ số 167 đường Ông Ích Khiêm, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. T dùng cưa sắt cắt ổ khóa cửa 02(hai) xe ô tô tải thùng BKS 43C-017.69 và BKS 43C-025.77 rồi lấy được 20 thùng bia HuDa lon, 06 thùng bia HuDa ice lon, 09 thùng sữa đậu nành Vinasoy. T mang đi bán được số tiền 5.000.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân, trả nợ hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 236 ngày 23/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản xác định số tài sản trên có tổng trị giá là 7.395.000 đồng. (Tài sản chưa thu hồi được).

- Vụ thứ tư: Vào một đêm cuối tháng 04 năm 2019, T điều khiển xe mô tô đến trước kho hàng của Công ty TNHH Quế Phú Hưng tại số 11 đường Cần Giuộc, phường An Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. T dùng cưa sắt cắt ổ khóa cửa xe ô tô tài thùng BKS 43C-133.94 rồi trộm cắp được 15 thùng vở học sinh Tân Tiến, loại vở T07-2, tập 96 trang Sóc Nâu-70g, 04 ô ly vuông. T mang bán số vở trên được 3.000.000 đồng rồi lấy tiền tiêu xài, trả nợ hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 237 ngày 23/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản xác định số tài sản trên có tổng trị giá là 7.500.000 đồng. (Tài sản chưa thu hồi được).

- Vụ thứ năm: Khoảng 01 giờ ngày 01 tháng 6 năm 2019, Lê Văn T tiếp tục điều khiển xe mô tô BKS 43F1-080.54 đến kho hàng Công ty TNHH Q tại số 11 đường Cần Giuộc, phường An Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, T dùng cưa sắt cắt ổ khóa cửa xe ô tô tải thùng BKS 43C-133.94 rồi trộm cắp được 15 thùng vở học sinh Tân Tiến, loại vở T07-2, tập 96 trang Sóc Nâu-70g, 04 ô ly vuông. T mang bán số vở trên được 3.000.000 đồng rồi lấy tiền tiêu xài, trả nợ. tài sản xác định số tài sản trên có tổng trị giá là 7.500.000 đồng. (Tài sản chưa thu hồi được).

- Vụ thứ sáu: Khoảng 01 giờ ngày 26/6/2019, T điều khiển xe mô tô BKS 43F1-080.54 đến trước kho hàng của Công ty TNHH TM&DV Đ tại số 243B đường Trường Chinh, phường An Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Tại đây T dùng cưa sắt cắt ổ khóa cửa xe ô tô tải thùng BKS 43C-215.99 rồi lấy được một thùng bánh Rosio 336, 02 thùng bánh Hura 300g, 12 hộp bánh Hura 288g, 02 thùng bánh Hura 336g, 11 hộp bánh Goody 450g, 104 gói kẹo 70g, 20 hộp bánh Hura 126g, 10 hộp bánh Quasure light 140g, 08 hộp bánh Hura 330. T mang bán số tài sản trên được số tiền 2.500.000 đồng rồi lấy tiêu xài, trả nợ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 238 ngày 23/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản xác định số tài sản trên có tổng trị giá là 5.240.800 đồng. (Tài sản chưa thu hồi được).

- Vụ thứ bảy: Khoảng 01 giờ ngày 05 tháng 7 năm 2019, T điều khiển xe mô tô BKS 43F1-080.54 đến trước kho hàng của Công ty TNHH P tại số 02 đường Trần Can, phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Tại đây T dùng cưa sắt cắt ổ khóa cửa xe ô tô tải thùng BKS 43C-064.05 rồi trộm cắp 01 bếp gas dương Canzy 862T, một bếp gas âm Canzy 368H, 02 bếp hồng ngoại BSBIF-4 TH. T mang bán số tài sản trên được 3.000.000 đồng rồi lấy tiền tiêu xài cá nhân và trả nợ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 239 ngày 23/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản xác định số tài sản trên có tổng trị giá là 8.150.000 đồng. (Tài sản chưa thu hồi được).

- Vụ thứ tám: Khoảng 01 giờ ngày 19 tháng 7 năm 2019, T điều khiển xe mô tô BKS 43F1-080.54 đến trước kho hàng của Công ty TNHH T tại số 223 đường Cần Giuộc, phường An Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Tại đây, T dùng cưa sắt cắt ổ khóa cửa xe ô tô tải thùng BKS: 43C-217.61 rồi trộm cắp 18 thùng bột giặt Vì Dân Fresh 2,4kg. T mang đi bán và thu được số tiền 1.500.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân và trả nợ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 240 ngày 23/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản xác định số tài sản trên có tổng trị giá là 3.627.126 đồng. (Tài sản chưa thu hồi được).

- Vụ thứ chín: Khoảng 01 giờ ngày 28 tháng 09 năm 2019, Lê Văn T điều khiển xe mô tô BKS 43F1-080.54 đến trước số nhà 153 đường Trần Xuân Lê, phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. T dùng cưa sắt cắt ổ khóa cửa xe ô tô tải thùng BKS 43C-129.46 của Công ty TNHH T rồi lấy đi 28 cây bút máy nét hoa Hồng Hà 2231, 41 chiếc dao rọc giấy Flex office FO KNO3, 45 chiếc kéo văn phòng Flex office SC 02, 30 vỉ sáp màu Thiên Long CRC 04 IDO. Sau đó T mang đi bán được số tiền 3.000.000 đồng rồi lấy tiền tiêu xài, trả nợ. tài sản xác định số tài sản bao gồm: 28 cây bút máy nét hoa Hồng Hà 2231, 41 chiếc dao rọc giấy Flex office FO KNO3, 45 chiếc kéo văn phòng Flex office SC 02, 30 vỉ sáp màu Thiên Long CRC 04 IDO có tổng trị giá là 3.627.126 đồng. (Tài sản chưa thu hồi được).

Đến 01 giờ 30 phút khuya ngày 08/10/2019 T mang theo 01 cưa cầm tay, 02 bao tời màu trắng, 01 sợi dây cao su, 01 sợi dây vải điều khiển xe mô tô BKS 43F1-080.54 đến trước số nhà 153 đường Trần Xuân Lê, phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để tìm sơ hở tiếp tục trộm cắp tài sản. Tại đây T bị tổ tuần tra 8394 Công an phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát hiện và mời về trụ sở làm việc.

Vật chứng thu giữ bao gồm:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA số loại NOUVO, biển kiểm soát 43F1- 08054;

- 01 Cưa cầm tay bằng kim loại;

- 02 bao tời màu trắng;

- 01 sợi dây cao su;

- 01 sợi dây vải;

(Toàn bộ vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, Tp Đà Nẵng).

Tổng trị giá tài sản Lê Văn T chiếm đoạt được là 50.135.926 đồng (năm mươi triệu, một trăm ba mươi lăm nghìn, chín trăm hai mươi sáu đồng).

* Về Trách nhiệm dân sự:

Lê Văn T đã tự nguyện bồi thường cho các bị hại, cụ thể:

Bồi thường cho anh K (Giám đốc của Công ty TNHH H) số tiền 7.600.000 đồng.

Bồi thường cho anh Trương Văn T (Người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH TM&DV T) số tiền 7.390.000 đồng.

Bồi thường cho anh Phạm Việt Đ (Người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH Q) số tiền 10.000.000 đồng.

Bồi thường cho anh Đỗ Thành T (Giám đốc Công ty TNHH TM&DV Đỗ Nhật B) số tiền 4.000.000 đồng.

Bồi thường cho chị Lê Thị D (Giám đốc Công ty TNHH MTV P) số tiền 6.000.000 đồng.

Bồi thường cho chị Dương Thị Mỹ T (Giám đốc Công ty TNHH T) số tiền 3.000.000 đồng. Bồi thường cho anh Nguyễn Ngọc T (Giám đốc Công ty TNHH T) số tiền 3.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Lê Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Tại Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 23 tháng 03 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng và đề nghị:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Văn T từ 15(mười lăm) tháng đến 21(hai mốt) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 Cưa cầm tay bằng kim loại, 02 bao tời màu trắng, 01 sợi dây cao su và 01 sợi dây vải.

Tịch thu sung công quỹ đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA số loại NOUVO, biển kiểm soát 43F1-08054.

(Tất cả vật chứng và tài sản trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng).

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại số tiền bồi thường và không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn T không có ý kiến gì đối với luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo Lê Văn T nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành của mình, bị báo xin lỗi người bị hại, xin xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với các lời khai khác và chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định: Từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 9 năm 2019, Lê Văn T đã liên tục thực hiện 09 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Tổng trị giá tài sản bị cáo T đã trộm cắp là 50.135.926đ (năm mươi triệu, một trăm ba mươi lăm nghìn, chín trăm hai mươi sáu đồng).

Do vậy có đủ cơ sở để kết luận Lê Văn T đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thì thấy:

Lê Văn T là người trưởng thành, có đầy đủ sức khỏe nhưng do lười lao động, ham hưởng thụ nên bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để thực hiện hành vi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân.

Trong vụ án này, Lê Văn T đã 09 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra, bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; tự mình khai ra tất cả những hành vi vi phạm; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, r, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét hành vi của bị cáo Lê Văn T không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội. Do đó cần xử lý nghiêm, nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích.

Xét bị cáo có đến 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (xử phạt theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự).

Xét thấy nội dung đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh, điều khoản luật và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, nhận thấy:

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA số loại NOUVO, biển kiểm soát 43F1-080.54, đứng tên chủ sở hữu là Dương Hải Hưng, địa chỉ: Số 35 Ngô Thì Nhậm, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Lê Văn T mua lại xe này của ông Nguyễn Trọng H là chủ cửa hàng mua bán xe máy cũ Hữu có giấy biên nhận ngày 16/5/2019. Quá trình điều tra không xác định được ông Dương Hải H đang ở đâu. Xét thấy bị cáo T làm nghề xe thồ, chiếc xe này là phương tiện làm ăn kiếm sống hàng ngày. Vì vậy cần trả xe lại cho bị cáo là phù hợp.

- Đối với vật chứng bao gồm: 01 cưa cầm tay bằng kim loại, 02 bao tời màu trắng, 01 sợi dây cao su và 01 sợi dây vải. Đây là công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại số tiền bồi thường và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.

- Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01(một) cưa cầm tay bằng kim loại, 02(hai) bao tời màu trắng, 01(một) sợi dây cao su và 01(một) sợi dây vải.

- Trả lại cho bị cáo Lê Văn T 01(một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA số loại NOUVO, biển kiểm soát 43F1- 080.54.

(Hiện tất cả vật chứng và tài sản trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng theo Biên bản giao,nhận vật chứng ngày 24/03/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về