Bản án 47/2020/HS-ST ngày 08/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 08/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 6 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2020/TLST - HS ngày 11 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2020/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn Q, sinh năm 1988 tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh.

Nơi cư trú: Tổ 3, khu C, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn T và bà Vũ Thị L; Vợ, con: chưa có; ( Chung sống như vợ chồng với chị Hà Thị D, sinh năm 1991); Tiền án: không; Tiền sự: không;

Nhân thân: Bản án hình sự số 31/2013/HSST ngày 02/5/2013 của TAND huyện ( nay là thị xã) Đ, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 ( Mười lăm) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản". Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/01/2014 ( đã được xóa án tích).

Bị bắt tạm giữ ngày 28 tháng 02 năm 2020; Bị tạm giam từ ngày 05 tháng 03 năm 2020 (hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh). Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị L. Sinh năm 1962; Nơi cư trú: Tổ 3, khu C, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

- Người làm chứng: Chị Ngô Thị Q; sinh năm 1979; Nơi cư trú: Khu C, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Đỗ Mạnh H; sinh năm 1970; Nơi cư trú: Khu C, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 35 phút ngày 28 tháng 02 năm 2020, tại khu vực cổng chùa C, thuộc khu C, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, qua công tác tuần tra Công an thị xã Đ kiểm tra, bắt quả tang Phạm Văn Q có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi quần phía sau bên trái của Q đang mặc 01 (một) túi nilon, kích thước ( 1,5x2)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra còn tạm giữ của Q 01 (một) xe đạp mini màu trắng.

Tại Bản kết luận giám định số 212/KLGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật thu giữ của Phạm Văn Q gửi giám định là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lượng: 0,198 gam (Không phẩy một chín tám gam).

Bản cáo trạng số 51/CT - VKS - ĐT ngày 08 tháng 5 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Phạm Văn Q về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và luận tội có quan điểm: Vẫn giữ nguyên quan điểm như nội dung Bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Q từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 28 tháng 02 năm 2020). Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu và tiêu hủy một phong bì niêm phong số 212/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh (bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định).

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì đối với luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Đánh giá về hành vi của bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ đã truy tố:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn Q đều khai nhận:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 13 giờ ngày 28 tháng 02 năm 2020, bị cáo đi xe đạp đến nhà người phụ nữ tên Y ở khu G, phường K, thị xã Đ gặp và thỏa thuận mua của Y 200.000 ( Hai trăm nghìn) đồng được 01 ( một) túi ma túy dạng đá. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cất giấu số ma túy này trong túi quần bò phía sau bên trái rồi đi về nhà, khi đang trên đường về đến khu vực chùa C, thuộc khu C, phường K thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ số ma túy bị cáo đang cất giấu trong người.

Tại phiên tòa bà Vũ Thị L trình bày: Vào trưa ngày 28/02/2020, bà đang nằm nghỉ ở nhà thì Q vào mượn xe đạp của bà, do không biết việc Q mượn xe đi mua ma túy nên bà đồng ý. Sau đó bà được biết Q bị Công an thị xã Đ bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 23/3/2020, Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ đã trả lại chiếc xe đạp trên cho bà. Tại phiên tòa hôm nay bà không có ý kiến gì về việc đã được nhận lại chiếc xe đạp.

Chị Ngô Thị Q có lời khai: Khoảng 13 giờ 35 phút ngày 28/02/2020, chị đang bán hàng tại nhà, đối diện cổng Chùa khu C, phường K, thị xã Đ nhìn thấy tổ công tác Công an thị xã Đ bắt giữ anh Phạm Văn Q, sinh năm 1988, trú tại: tổ 3, khu C, phường K, thị xã Đ. Kiểm tra trên người của Quyết tại túi quần bò phía sau bên trái đang mặc có 01 ( một) túi nilon màu trắng, kích thước (1,5x2)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, Q tự nhận đấy là ma túy, Q khai mua về để sử dụng. Sau đó, Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ông Đỗ Mạnh H có lời khai: Vào khoảng 13 giờ 40 phút ngày 28/02/2020, ông được cơ quan Công an mời đến khu vực cổng Chùa khu C, phường K, thị xã Đ chứng kiến việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang một thanh niên tên là Phạm Văn Q, sinh năm 1988, trú tại: tổ 3, khu C, phường K, thị xã Đ. Lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, thu giữ tại túi quần bò phía sau bên trái Q đang mặc 01 (một) túi nilon, kích thước (1,5x2)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, Q khai đấy là ma túy, Q mua về để sử dụng. Sau đó, Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Xét thấy: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh lập hồi 13 giờ 40 phút ngày 28 tháng 02 năm 2020; Phù hợp với: Biên bản khám nghiệm hiện trường, Sơ đồ hiện trường, Bản ảnh hiện trường, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản kết luận giám định số 212/KLGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật thu giữ của Phạm Văn Q gửi giám định là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lượng: 0,198gam (Không phẩy một chín tám gam). (Methamphetamine nằm trong Danh mục IIC, STT: 323 Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ Ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất).

Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 35 phút ngày 28 tháng 02 năm 2020, tại khu C, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, bị cáo Phạm Văn Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 (một ) túi nilon chứa chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng là 0,198 gam (Không phẩy một chín tám gam) mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội danh và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Bản cáo trạng số 51/CT - VKS - ĐT ngày 08 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh và lời buộc tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và luận tội tại phiên tòa là có đủ cơ sở, cần được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo Phạm Văn Q là nguy hiểm, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và các chất gây nghiện, làm mất trật tự, an toàn xã hội. Chất ma tuý gây nguy hại đến sức khoẻ con người, ma túy cũng là mầm mống phát sinh các loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác, tạo nên nhiều bức xúc trong quần chúng nhân dân. Trong những năm qua Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị, xã hội đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm đấu tranh, ngăn chặn đối với các tội phạm về ma tuý; nhiều cuộc vận động, tuyên truyền về tác hại của ma tuý đã được tổ chức; rất nhiều tội phạm về ma tuý đã bị pháp luật trừng trị, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, do vậy cần phải bị xử lý thật nghiêm trước pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là người có nhân thân không tốt, đã bị TAND huyện ( nay là thị xã) Đ, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 ( Mười lăm) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản" tại Bản án hình sự số 31/2013/HSST ngày 02/5/2013, mặc dù đã chấp hành xong hình phạt nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân, phấn đấu trở thành một công dân có ích cho gia đình và xã hội mà bị cáo lại tiếp tục phạm tội, hành vi phạm tội lần này có tính chất và mức độ nghiêm trọng hơn hành vi phạm tội trước đó. Điều đó chứng tỏ bị cáo vẫn coi thường kỷ cương pháp luật.

Mặc dù quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, song dù có giảm nhẹ vẫn cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe đạp mini màu trắng thu giữ của bị cáo Phạm Văn Q. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bà Vũ Thị L ( là mẹ đẻ của Q) cho Q mượn, không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 23/3/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe đạp trên cho bà L, bà L cũng không có ý kiến gì khi nhận lại tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Một phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh, bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định, xét thấy là vật có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[5] Đối với người phụ nữ tên Y, qua xác minh là Đỗ Thị Y, trú tại khu G, phường K, thị xã Đ, hiện Yến không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền địa phương không biết Yến đi đâu, bao giờ về nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo Phạm Văn Q là người bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 329; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự;

- Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

1. Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Q 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (Ngày 28 tháng 02 năm 2020).

2. Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy một phong bì niêm phong số 212/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh (bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định).

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 64 ngày 11 tháng 5 năm 2020 giữa Công an thị xã Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đ).

3.Về án phí: Bị cáo Phạm Văn Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5.Về biện pháp ngăn chặn: Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-ST ngày 08/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về