Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 47/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 129/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2020 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17/9/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị L; sinh năm: 1993

Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện T, Thanh Hoá.

- Bị đơn: Anh Quách Công Ng; sinh năm: 1988

Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện T, Thanh Hoá.

Tại phiên tòa vắng mặt chị L và anh Ng, chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Ng vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 23/6/2020, bản tự khai ngày 20/7/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Bùi Thị L trình bày: Chị và anh Quách Công Ng kết hôn tự nguyện, có đăng ký ngày 21/9/2011 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, luôn bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Tháng 12 năm 2019 chị từng làm đơn xin ly hôn ra Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành, trong quá trình Tòa án giải quyết được gia đình hai bên động viên nên chị đã rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, đến nay tình trạng hôn nhân giữa chị và anh Nghĩa vẫn không thể cải thiện được. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Ng.

- Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Quách Thị Ánh Ng, sinh ngày 30/01/2012 và Quách Thọ A, sinh ngày 24/02/2017. Ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ng; giao cháu A cho anh Ng trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

- Về tài sản: Chị L không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 15/7/2020 anh Quách Công Ng trình bày: Anh và chị Bùi Thị L kết hôn tự nguyện, đăng ký ngày 21/9/2011 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, luôn bất đồng quan điểm. Vợ chồng không có tiếng nói chung. Tháng 12 năm 2019 chị L đã đưa đơn ra Tòa án giải quyết ly hôn, quá trình giải quyết được sự động viên của hai bên gia đình nên chị L đã rút đơn khởi kiện để vợ chồng trở về đoàn tụ cùng nuôi con. Nay chị L tiếp tục làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, bản thân anh xét thấy vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng, nên anh vẫn mong muốn vợ chồng trở về đoàn tụ, cùng nhau vun vén hạnh phúc gia đình và nuôi con cái trưởng thành.

- Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung là các cháu Quách Thị Ánh Ng, sinh ngày 30/01/2012 và Quách Thọ A, sinh ngày 24/02/2017. Ly hôn, anh Ng xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A, giao cháu Ng cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

- Về tài sản: Anh Ng không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX), Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Bị đơn đã không tuân thủ đầy đủ các quy định của BLTTDS. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình xử cho chị Bùi Thị L được ly hôn anh Quách Công Ng. Về con chung: Giao cháu Quách Thị Ánh Ng, sinh ngày 30/01/2012 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Quách Thọ A, sinh ngày 24/02/2017 cho anh Ng trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản: Chị L, anh Ng không yêu cầu nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, các quy định của pháp luật, HĐXX nhận định: Về tố tụng:

[1]. Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng như Viện kiểm sát được biết.

[2]. Cũng trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh Ng không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh Ng theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.

[3]. Anh Ng đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.

[4]. Tại phiên tòa, chị L vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Ng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị L và anh Ng.

[5]. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị L và anh Quách Công Ng kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 21/9/2011 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều cấm Luật hôn nhân và gia đình, như vậy là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Sau khi kết hôn, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi cọ. Việc này đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận và cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương. Anh Ng có mong muốn hòa giải để vợ, chồng được đoàn tụ cùng nhau nuôi con, tuy nhiên Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Ng hai lần đến để tham gia hòa giải, nhưng anh Ng đều không đến để tham gia các phiên hòa giải, cũng như không đến để tham gia phiên tòa, chứng tỏ anh Ng không còn tha thiết hàn gắn tình cảm vợ chồng. Bản thân chị L cương quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Ng, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử cho chị Bùi Thị L được ly hôn anh Quách Công Ng.

[6]. Về con cái: Chị Bùi Thị L và anh Quách Công Ng có hai con chung là cháu Quách Thị Ánh Ng, sinh ngày 30/01/2012 và Quách Thọ A, sinh ngày 24/02/2017. Ly hôn, chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quách Thị Ánh Ng và giao cháu Quách Thọ A cho anh Ng trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Anh Ng cũng cùng ý kiến như chị L, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị L và anh Ng, giao cháu Quách Thị Ánh Ng cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quách Thọ A, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[7]. Về tài sản: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[8]. Về án phí: Chị L phải chịu án phí sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147 BLTTDS. Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị L được ly hôn anh Quách Công Ng.

Về con cái: Giao cháu Quách Thị Ánh Ng, sinh ngày 30/01/2012 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quách Thọ A, sinh ngày 24/02/2017. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Chị L, anh Ng có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Bùi Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành, theo biên lai số AA/2018/0002817 ngày 13/7/2020. Chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Bùi Thị L và anh Quách Công Ng.

Chị L và anh Ng có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:47/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về