Bản án 47/2019/HSST ngày 31/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 47/2019/HSST NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI TRM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 12 năm 2019 tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 44/2019/HSST ngày 02/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HS ngày 20/12/2019 đối với bị cáo:

Khổng Văn T, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1973; Nơi cư trú: thôn V, xã V, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khổng Văn C (đã chết) và bà Trần Thị Kh (đã chết); vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 (đã ly hôn) và Trần Thị H1, sinh năm 1973 (đã ly hôn), con: có 02 con; tiền sự: không; tiền án: có 01 tiền án: Tại Bản án số 22 ngày 27/4/2018, Khổng Văn T bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tuyến chấp hành xong hình phạt ngày 30/3/2019. Đến nay chưa được xóa án tích; Về nhân thân: Tại Bản án số 07 ngày 20/02/2003 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. T chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/10/2003 và đã chấp hành xong các nghĩa vụ dân sự khác. Tại Bản án số 22 ngày 06/7/2004 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. T chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/02/2006 và đã chấp hành xong các nghĩa vụ dân sự khác. Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12 ngày 18/5/2013 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định đưa vào Trung tâm giáo dục lao động xã hội Vĩnh Phúc hình thức cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Tuyến chấp hành xong ngày 04/01/2015.

Ngày 18/5/2013 bị Công an phường Minh Phương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. T đã nộp phạt.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm gữ, tạm giam từ ngày 29/10/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt);

Người bị hại: Công ty TNHH Gia Khánh; Địa chỉ: thôn Ph, xã C, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; Người đại diện theo pháp luật: Ông Khổng Thế L, chức vụ: Giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1981; Địa chỉ: thôn Ph, xã C, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; (vắng mặt);

Người làm chứng: Anh Trần Xuân Trường, sinh năm 1987; Nơi cư trú: thôn Chiến Thắng, xã Đồng Thịnh, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; ông Khổng Văn Đoàn, sinh năm 1966; Địa chỉ: thôn Mới, xã Cao Phong, huyện Sông lô, tỉnh Vĩnh Phúc; (đều vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 29/10/2019, Khổng Văn T trú tại thôn V, xã V, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc đi bộ một mình đến bãi Vở Đông thuộc thôn Phú Hậu, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc chơi. Sau đó, T đi nhờ tàu chở cát của một người đàn ông (không biết tên, không nhớ biển kiểm soát tàu) ngược dòng sông Lô hướng đi huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm một người tên D đang lái tàu trên tuyến sông Lô để xin tiền. Khi đi đến địa phận xã C, huyện Sông Lô, Tuyến hỏi thăm về D nhưng người đàn ông lái tàu không biết ai tên D nên T bảo người lái tàu cho T vào bờ. Người đàn ông lái tàu đưa T vào bến cát sỏi của Công ty trách nhiệm hữu hạn Gia Khánh (sau đây gọi tắt là Công ty Gia Khánh) thuộc thôn Ph, xã C huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Khi trèo qua bãi cát của công ty Gia Khánh, quan sát thấy lán để máy nghiền cát sỏi có rất nhiều máy móc thiết bị, không có người trông coi. Lúc này, T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. T đi bộ đến trước cửa lán máy nghiền thì thấy đống búa đập nghiền cát sỏi (sau đây gọi tắt là búa đập), bằng kim loại, đã qua sử dụng để ở đó. T tiến đến vị trí để búa đập đã qua sử dụng, dùng hai tay mỗi tay xách 01 chiếc búa đập, đã qua sử dụng đi vòng qua sau lán cất giấu ở đống sỏi gần khu vực cống Cầu Mai cách vị trí ban đầu khoảng 20 mét. Sau đó, T tiếp tục quay lại vị trí đống búa đập đã qua sử dụng dùng hai tay mỗi tay xách 01 chiếc búa đập nữa mang đến vị trí vừa để 02 chiếc búa đập cất giấu lúc trước. Khi đi được khoảng 03 mét đến 04 mét thì T bị anh Nguyễn Văn Ph là quản lý, ông Khổng Văn Đ là bảo vệ và anh Trần Xuân Tr là lái xe của Công ty Gia Khánh phát hiện tri hô, đuổi bắt. Thấy bị phát hiện, T vứt 02 chiếc búa đập đang cầm trên tay xuống đống sỏi cạnh đó rồi chạy lên đê tả sông Lô nhưng bị bắt giữ, thu giữ 04 chiếc búa đập đã qua sử dụng. Sau đó, anh Ph ra vị trí để đặt máy nghiền cát kiểm tra phát hiện có 02 chiếc búa còn mới, chưa qua sử dụng nên thu giữ mang vào lán của công ty đồng thời trình báo Cơ quan Công an về sự việc trên.Sau khi nhận được tin báo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Lô đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Khổng Văn T.

Tại kết luận số 104 ngày 01/11/2019, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Sông Lô có kết luận: 04 chiếc búa đập nghiền cát sỏi, bằng sắt, đã hết hạn sử dụng (quy thành phế liệu sắt vụn), tổng trọng lượng 39,2kg, đơn giá 4000 đồng/kg, tổng trị giá 156.800đồng. T đã có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Đối với người đàn ông lái tàu và người đàn ông tên D do T không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không xác minh, làm rõ được.

* Về vật chứng vụ án: 01 con dao dài 21cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 10cm, rộng 2,5cm, chuôi dao bằng nhựa màu xanh dài 11cm, loại dao gấp, đã cũ, thu giữ của Tuyến. 06 chiếc búa đập nghiền cát sỏi trong đó: 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu nâu, còn mới, chưa qua sử dụng, trọng lượng 20kg; 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu nâu, còn mới, chưa qua sử dụng, trọng lượng 19kg; 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng 10kg; 02 chiếc búa nghiền cát, bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng mỗi chiếc búa 9,8kg; 01 chiếc búa nghiền cát, bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng 9,6kg là tài sản hợp pháp của Công ty Gia Khánh.

* Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra xác định 04 chiếc búa đập của máy nghiền cát sỏi mà Tuyến trộm cắp đã được thu giữ, không hư hỏng, mất mát gì. Công ty Gia Khánh không yêu cầu Tuyến bồi thường gì.

Tại cơ quan điều tra, Khổng văn T đã thành khẩn khai nhận rõ hành vi trộm cắp tài sản như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 45/CT-VKS ngày 30/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô đã truy tố Khổng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô luận tội đối với bị cáo Khổng Văn T giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: xử phạt Khổng Văn T từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/10/2019. Không áp dụng hình phạt bổ xung đối với bị cáo.

Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, ăn năn hối hận, bị cáo nhất trí với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Sông Lô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; vật chứng thu giữ được cùng với các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án và phù hợp với nội dung Cáo trạng đã được đại diện Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ động cơ mục đích tư lợi, để có tiền tiêu xài cá nhân nên ngày 29/10/2019, tại bến cát sỏi của Công ty TNHH Gia Khánh thuộc thôn Phan Dư, xã Cao Phong, huyện Sông Lô, Vĩnh Phúc, Khổng Văn T đã có hành vi trộm cắp của công ty TNHH Gia Khánh 04 chiếc búa đập nghiền cát sỏi bằng sắt, đã hết hạn sử dụng (quy thành phế liệu sắt vụn). Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 156.800 đồng. Tuyến đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nên lần trộm cắp này đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Hội đồng xét xử khẳng định: Hành vi của bị cáo Khổng Văn T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173của Bộ luật hình sự.

Điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá… dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

b) Đã bị kết án về tội này… chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;”

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó thể hiện sự xem thường phápluật, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị Tòa án đưa ra xét xử về tội trộm cắp tài sản.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên được áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo T làm nghề tự do, không có thu nhập, công việc ổn định cũng như không có tài sản nên Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH Gia Khánh không yêu cầu Tphải bồi thường. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về vật chứng: Đối với 01 con dao dài 21 cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 10 cm, rộng 2,5 cm, chuôi dao bằng nhựa màu xanh dài 11 cm, loại dao gấp, đã cũ không còn giá trị sử dụng, bị cáo không yêu cầu trả lại nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 06 chiếc búa đập nghiền cát sỏi trong đó có 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu nâu, còn mới, chưa qua sử dụng, trọng lượng 20kg; 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu nâu, còn mới, chưa qua sử dụng, trọng lượng 19kg; 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng 10kg; 02 chiếc búa nghiền cát, bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng mỗi chiếc búa 9,8kg; 01 chiếc búa nghiền cát, bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng 9,6kg là tài sản hợp pháp của Công ty Gia Khánh nên cần xem xét trả lại cho Công ty TNHH Gia Khánh.

[9] Về án phí: Bị cáo Khổng Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Khổng Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Khổng Văn T 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/10/2019.

3.Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 21 cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 10 cm, rộng 2,5 cm, chuôi dao bằng nhựa màu xanh dài 11 cm, loại dao gấp, đã cũ. Trả lại cho công ty TNHH Gia Khánh 06 chiếc búa đập nghiền cát sỏi trong đó có 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu nâu, còn mới, chưa qua sử dụng, trọng lượng 20kg; 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu nâu, còn mới, chưa qua sử dụng, trọng lượng 19kg; 01 chiếc búa nghiền cát bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng 10kg; 02 chiếc búa nghiền cát, bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng mỗi chiếc búa 9,8kg; 01 chiếc búa nghiền cát, bằng kim loại, màu xám, đã qua sử dụng, trọng lượng 9,6kg.(Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/12/2019 giữa Công an huyện Sông Lô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Lô).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Khổng Văn T phải chịu 200.000đ (bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HSST ngày 31/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:47/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về