Bản án 47/2019/HSST ngày 14/05/2019 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 47/2019/HSST NGÀY 14/05/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Vào ngày 14 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành - tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2019/HSST, ngày 19 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐ XXST-HS ngày 03/5/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phan Xuân L(Tên gọi khác: không); Sinh ngày 12/6/1970 tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: xóm 4, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông: Phan Xuân N(chết); Con bà: Võ Thị D(chết); Anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ: Phan Thị H, sinh năm 1970; Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/02/2019 đến ngày 18/02/2019. Tạm giam: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/02/2019 đến ngày 21/4/2019. Bị cáo tại ngoại tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Khắc T (Tên gọi khác: không); Sinh ngày 06/10/1997 tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: xóm Đ, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 6/12; Cong ông: Nguyễn Khắc B, sinh năm 1959; Con bà: Nguyễn Thị L; sinh năm 1964; Anh chị em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/02/2019 đến ngày 18/02/2019; Tạm giam: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/02/2019 đến ngày 21/4/2019. Bị cáo tại ngoại tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An (Có mặt tại phiên tòa).

3. Họ và tên: Nguyễn Công H (Tên gọi khác: không); Sinh ngày 11/02/1973 tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: xóm Đ, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Làm ruộng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Nguyễn Công D(đã chết); Con bà: Lê Thị X, sinh năm 1931; Anh chị em ruột có 07 người, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình;Vợ: Chu Thị N, sinh năm 1973; Có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 17/7/1994 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 04 năm tù về "Tội cố ý gây thương tích", bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 19/8/1997; Tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/02/2019 đến ngày 21/4/2019.Bị cáo tại ngoại tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An (Có mặt tại phiên tòa).

4. Họ và tên: Cao Văn L (Tên gọi khác: không); Sinh ngày 16/6/1986 tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: xóm 4, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An;Nghề nghiệp: Làm ruộng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không;Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Cao Văn C; sinh năm: 1956; Con bà: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1957; Anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là con thứ tư trong gia đình;Vợ: Lưu Thị T, sinh năm 1989 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/02/2019 đến ngày 18/02/2019; Tạm giam : không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/02/2019 đến ngày 21/4/2019. Bị cáo tại ngoại tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An (Có mặt tại phiên tòa).

5. Họ và tên: Nguyễn Xuân V (Tên gọi khác: không); Sinh ngày 25/9/1992 tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: làm ruộng; Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: xóm Đ, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Xuân H(đã chết); Con bà: Chu Thị Á, sinh năm: 1964; Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ, con: chưa có;Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/02/2019 đến ngày 18/02/2019; Tam giam: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/02/2019 đến ngày 21/4/2019. Bị cáo tại ngoại tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An (Có mặt tại phiên tòa).

6. Họ và tên: Cao Văn H (Tên gọi khác: không); sinh ngày 17/10/1971 tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Nơi Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: xóm 4, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không;Trình độ học vấn: 9/12; Con ông:Cao Văn B(đã chết); Con bà: Phan Thị H(đã chết); Anh chị em ruột có 08 người, bị cáo là con thứ tám trong gia đình;Vợ: Hoàng Thị H, sinh năm 1979; Có 01 con, sinh năm 2000;Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/02/2019 đến ngày 18/02/2019; Tạm giam: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/02/2019 đến ngày 21/4/2019. Bị cáo tại ngoại tại xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An(Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 15/02/2019, Phan Xuân L, Cao Văn L, Nguyễn Khắc T, Nguyễn Công H, Nguyễn Xuân V đến nhà Cao Văn H tại xã H, huyện Y cùng xã chơi. Cao Văn H ngồi nói chuyện với mọi người được một lúc thì vào phòng nằm ngủ, những người còn lại cùng rủ nhau lên gác xép tại tầng hai để đánh bạc. Cao Văn L đã mua sẵn một bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh, đồng thời lấy chiếu nhựa màu vàng xanh có trong nhà của Cao Văn H trải ra giữa nền để chuẩn bị đánh bạc. Cả 05 người ngồi xuống thành vòng tròn trên chiếu, các đối tượng thống nhất để đánh bạc với nhau, bằng hình thức đánh bài “Liêng”, thắng thua bằng tiền, cụ thể như sau: Cả nhóm qui định mỗi ván bài người chơi bỏ ra giữa chiếu 10.000 đồng gọi là đặt "tẩy". Sau đó, người phát bài sử dụng bộ bài Tu lơ khơ 52 quân chia cho mỗi người chơi 03 quân. Người phát bài có quyền đặt vào tẩy một số tiền nhất định (gọi là tố) hoặc bỏ bài, lần lượt những người chơi tiếp theo tính theo chiều ngược chiều kim đồng hồ có thể "theo", "tố thêm" hoặc "dập bài". Nếu người chơi "theo" thì phải đặt số tiền bằng với số tiền người liền trước đã vào tẩy; nếu "tố thêm" thì trước hết phải "theo" sau đó thêm vào tẩy một khoản tiền nữa để "tố", mỗi lần "tố" từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng. Khi không có người nào "tố thêm" nữa thì tất cả những người "theo" và người "tố" sẽ so bài to nhỏ để tìm ra một người thắng hết số tiền giữa chiếu. Hình thức đánh “Liêng” được tính theo các quân bài từ lớn đến bé, qui định sáp (ba quân bài giống nhau), liêng (ba quân bài được tính theo thứ tự tăng dần không ngắt quảng), ảnh (thuộc những con bài J, Q, K), điểm (là số thuộc hàng đơn vị của tổng 03 quân bài, điểm cao nhất là 9, thấp nhất là 0). Quân Át tỉnh 1 điểm, các quân 10, J, Q, K đều tính 0 điểm. Cao Văn H đi ngủ một lúc sau dậy, thấy các đối tượng đang đánh bạc trên gác xép tầng hai nhà mình thì ngồi xem một lúc, sau đó lại xuống tầng một để ngủ. Ngủ một lúc Cao Văn H lại tiếp tục dậy mang nước lên tầng hai cho các đối tượng đánh bạc uống. Đến khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị Công an huyện Yên Thành phát hiện, bắt quả tang. Tang vật thu giữ số tiền trên chiếu bạc là 10.540.000 đồng, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh, 01 chiếu nhựa màu vàng xanh đã qua sử dụng, thu giữ trên người của Nguyễn Công H số tiền 6.000.000 đồng.

Quá trình điều tra đã xác định Phan Xuân L khi đi mang theo 3.900.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Nguyễn Khắc T khi đi mang theo 3.000.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Nguyễn Công H khi đi mang theo 6.500.000 đồng nhưng chỉ sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc. Nguyễn Xuân V khi đi mang theo 1.140.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Cao Văn L khi đi mang theo 2.000.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc.

Tổng số tiền chứng minh Phan Xuân L, Nguyễn Khắc T, Nguyễn Công H, Nguyễn Xuân V, Cao Văn L, Cao Văn H sử dụng để đánh bạc là 10.540.000 đồng (Mười triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng).

Vt chứng của vụ án: Số tiền 10.540.000 đồng, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh, 01 chiếc chiếu nhựa màu vàng xanh.

Số tiền thu giữ trong người Nguyễn Công H quá trình điều tra không liên quan đến việc đánh bạc, cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành đã trả lại theo quy định.

Tại bản cáo trạng số: 59/VKS-HS ngày 16/4/2019 truy tố Phan Xuân L, Nguyễn Khắc T, Nguyễn Công H, Cao Văn L, Nguyễn Xuân V và Cao Văn H về "Tội đánh bạc" quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng hình phạt đối với các bị cáo cụ thể như sau:

1- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Phan Xuân L từ 15 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng.

2- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Khắc T từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng.

3- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt đối với Nguyễn Công H từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng.

4- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt đối với Cao Văn L từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

5- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt đối với Nguyễn Xuân V từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.

6- Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 điều 51; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự. Xử phạt đối với Cao Văn H từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự. Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc 10.540.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh, 01 chiếc chiếu nhựa màu vàng xanh vì không có giá trị sử dụng.

-Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí toà án.

Các bị cáo không tranh luận đối đáp với đại diện viện kiểm sát, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ buộc tội:Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa công khai, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Trên cơ sở lời khai nhận của các bị cáo, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu giữ được là hoàn toàn phù hợp với nhau. Cơ quan điều tra, điều tra viên, kiểm sát viên đã tiến hành tố tụng điều tra như lập biên bản phạm tội quả tang; thu giữ vật chứng; lấy lời khai; hỏi cung bị can; điều tra xác minh ra các quyết định về tố tụng, điều tra theo đúng các quy định của pháp luật. Xét thấy đã có đủ căn cứ kết luận Phan Xuân L, Nguyễn Khắc T, Nguyễn Công H, Nguyễn Xuân V, Cao Văn L, Cao Văn H phạm tội “Đánh bạc” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành đã truy tố.

Các bị cáo đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Liêng”, tổng số tiền chứng minh mà các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 10.540.000 đồng, chính vì vậy,Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là đúng mức.

[2] Đánh giá tính chất hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo thấy rằng:

Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đánh bạc được thua bằng tiền của các bị cáo bị nhà nước nghiêm cấm, hành vi đó đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất ổn định xã hội mà còn là hệ lụy của các tệ nạn, tội phạm khác. Chính vì vậy phải xử lý các bị cáo về hình sự, xử phạt các bị cáo mức án thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội để có tác dụng giáo dục riêng và ngăn ngừa chung.

Đi với Cao Văn L, Phan Xuân L, Nguyễn Khắc T là những người tham gia đánh bạc tích cực nhất. Bị Cáo Cao Văn L đã có ý thức đánh bạc từ đầu, chuẩn bị bài trong người để đánh bạc, bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc 2.000.000 đồng nhiều thứ ba trong vụ án. Phan Xuân L tham gia và sử dụng 3.900.000 đồng đánh bạc nhiều nhất trong vụ án. Nguyễn Khắc T tham gia, sử dụng số tiền 3.000.000 đồng để đánh bạc nhiều thứ hai của vụ án. Với các bị cáo này, cần nghiêm khắc lên án, đáng lẽ cần cách ly xã hội. Tuy nhiên xét thấy rằng các bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình.Vì vậy cần áp dụng nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng của pháp luật để xem xét để xử lý đối với các bị cáo cho phù hợp. Cần xử cho mỗi bị cáo một mức án vừa mang tính trừng trị, vừa mang tính nhân đạo của pháp luật. Xét thấy chưa cần cách ly xã hội, mà xử cho các bị cáo được hưởng án treo cũng có đủ tác dụng giáo dục giáo dục riêng và phòng ngừa chung như quy định tại điểm i, s khoản1 Điều 51, khoản 1, 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Đi với Nguyễn Công H tham gia đánh bạc và sử dụng số tiền đánh bạc là 500.000 đồng ít hơn các bị cáo khác. So với các bị cáo ở trên thì hành vi của bị cáo ít nguy hiểm hơn, nhưng nhân thân bị cáo xấu, ngày 17/7/1994 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 04 năm tù về "Tội cố ý gây thương tích". Với bị cáo, cần nghiêm khắc lên án, đáng lẽ cần cách ly xã hội. Tuy nhiên xét thấy sau khi được xóa án tích cho đến ngày phạm tội, bị cáo luôn chấp hành tốt đường lối chính sách pháp luật của nhà nước, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã khai báo thành khẩn, tỏ thái độ ăn năn hối lỗi hành vi phạm tội của mình. Bố mẹ của bị cáo là là người có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ hình phạt với bị cáo, chưa cần phải cách ly ra ngoài xã hội, mà xử cho bị cáo được hưởng án treo cũng có đủ tác dụng giáo dục giáo dục riêng và phòng ngừa chung như quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Đi với Nguyễn Xuân V và Cao Văn H tham gia đánh bạc so với các bị cáo trên thì ít nguy hiểm hơn, số tiền bị cáo V sử dụng vào việc đánh bạc chỉ là 1.140.000 đồng. Bị cáo Cao Văn H không tham gia đánh bạc, chỉ do nể nang, ham vui đã cho các bị cáo đánh bạc trong nhà dẫn đến phạm tội. Bị cáo phạm tội ở vai trò giúp sức, thứ yếu. Tuy nhiên cũng cần phải xử lý nghiêm với mức án tương xứng để giáo dục các bị cáo. Xét thấy các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình.Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ hình phạt với các bị cáo, chỉ xử lý các bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ, khấu trừ một phần thu nhập đối với bị cáo cũng đủ nghiêm.

[3] Hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo là lao động nông nghiệp, thu nhập thấp, hành vi đánh bạc là cơ hội, nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

[4] Vật chứng: Xét số tiền 10.540.000 đồng thu giữ của các bị cáo là số tiền dùng vào việc đánh bạc cần phải tịch thu nộp ngân sách nhà nước; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh, 01 chiếc chiếu nhựa màu vàng xanh là phương tiện dùng vào việc đánh bạc, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy như quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[6] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

1. Xử phạt: Bị cáo Phan Xuân L 09(chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18 (Mười tám) tháng về tội:“Đánh bạc”. Thời hạn thử thách đối với bị cáo được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 14/5/2019). Giao bị cáo Phan Xuân L cho UBND xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự. khon 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Khắc T 09(chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18(Mười tám) tháng về tội:“Đánh bạc”. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 14/5/2019).Giao bị cáo Nguyễn Khắc T cho UBND xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

3. Xử phạt: Bị cáo Cao Văn L 09(chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18( Mười tám) tháng về tội:“Đánh bạc”. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 14/5/2019).Giao bị cáo Cao Văn L cho UBND xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khon 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

4. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công H 08(Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 16( Mười sáu) tháng về tội:“Đánh bạc”. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 14/5/2019).Giao bị cáo Nguyễn Công H cho UBND xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.

khon 3 Điều 36 của Bộ luật hình sự.

5. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân V 09(chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Nhưng được trừ thời gian tạm giữ 03(Ba) ngày từ ngày 15/02/2019 đến ngày 18/02/2019 được qui đổi thành 09(Chín) ngày cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Nguyễn Xuân V cho UBND xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục đối với bị cáo. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục, người bị kết án nhận được quyết định Thi hành án và bản án.

Khấu trừ một phần thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Xuân V với thời gian là 09 (chín) tháng, mỗi tháng 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) để sung công quỹ nhà nước.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 3 Điều 36 của Bộ luật hình sự.

6. Xử phạt:Bị cáo Cao Văn H 09(chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Nhưng được trừ thời gian tạm giữ 03(Ba) ngày từ ngày15/02/2019 đến ngày 18/02/2019 được qui đổi thành 09(Chín) ngày cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Cao Văn H cho UBND xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục đối với bị cáo. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục, người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản án.

Khấu trừ một phần thu nhập đối với bị cáo Cao Văn H với thời gian là 09(sáu) tháng, mỗi tháng 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) để sung công quỹ nhà nước.

7. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 10.540.000đ(Mười triệu, năm trăm bốn mươi ngàn đồng) đã được Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành nộp vào tài khoản số: 3949.0104.7746.0000 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An (Giấy nộp tiền ngày 18/4/2019).

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh, 01 chiếc chiếu nhựa màu vàng xanh. Vật chứng đã cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/4/2019 và Phiếu nhập kho số: NK050 ngày 18/4/2019.

8. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

9. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt, được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HSST ngày 14/05/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:47/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về