Bản án 47/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 47/2019/HS-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 432019/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HS ngày 31/10/2019 đối với bị cáo:

Ngô Xuân P, sinh ngày 06 tháng 01 năm 1989 tại phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: thôn M, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Nghề nghiệp: Thợ cơ khí ; trình độ văn hóa: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Xuân C và bà Nguyễn Thị D (đã chết); tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 25/7/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội Phá hủy công trình, P tiện quan trọng về an ninh quốc gia theo bản án số 35/HSST, Ngày 12/7/2010 bị Tòa án nhân dân thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 109/HSST tổng hợp hình phạt 24 tháng tù tại bản án số 35/HSST buộc phải chấp hành hình phạt tù là 33 tháng, Ngày 10/01/2011 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 4 năm 9 tháng về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 01/HSST. Bị cáo tự thú và bị Tạm giữ từ ngày 03/8/2019 đến ngày 06/8/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

Anh Phạm Hùng C, sinh năm 1986. Địa chỉ: thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Nhất T, sinh năm 1997. Địa chỉ: thôn L, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt

Những người làm chứng:

Anh Lê Văn H, sinh năm 1987. Địa chỉ: thôn L, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt

Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1968. Địa chỉ: thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 19/6/2018, Ngô Xuân P đi qua nhà hàng tiệc cưới Love Garden thuộc xã C thì nhìn thấy trong sân nhà hàng có nhiều xe mô tô dựng không người trông coi nên P đã nảy sinh ý định trộm cắp xe. P điều khiển xe mô tô của mình đi vào trong sân nhà hàng rồi dựng gần xe mô tô Yamaha Exciter của anh Phạm Hùng C. Quan sát thấy không có người, P liền tháo phần dây điện ổ khóa của xe rồi nối lại để khởi động xe và điều khiển xe đến giấu vào một bụi cây ở ven đường sau đó quay lại lấy xe của mình rồi đi về nhà. Khoảng 5 ngày sau P tới đại điểm giấu xe và vào TP Hồ Chí Minh bán cho một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) với giá 20.000.000 đồng, sau đó tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 03/8/2019 P đến tự thú tại Công an huyện Quảng Trạch về hành vi lấy trộm chiếc xe mô tô nêu trên.

Quá trình điều tra đã xác định chiếc xe mô tô Yamaha Exciter, màu trắng đen đỏ, biển kiểm soát 73E1-29518 mà Ngô Xuân P lấy trộm và đem bán là của anh Nguyễn Nhất T cho anh Phạm Hùng C (là anh rể của T mượn đi).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 39/KL-HĐ ngày 06/8/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện Quảng Trạch kết luận: Giá trị của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150 cc, màu trắng đen đỏ, biển kiểm soát 73E1-29518 mua vào tháng 12/2016 có giá trị là 38.000.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu trắng đen đỏ, biển kiểm soát 73E1-29518 là vật chứng vụ án, Ngô Xuân P đã bán tại thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không tìm thấy.

Về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại: Ngày 20/8/2019, Ngô Xuân P cùng với em trai Ngô Xuân H và bị hại anh Phạm Hùng C đã thỏa thuận bồi thường về dân sự, theo đó các bên đã thỏa thuận Ngô Xuân P bồi thường cho anh Phạm Hùng C số tiền 38.000.000 đồng. Các bên đã giao nhận đầy đủ số tiền trên. Người bị hại đã viết đơn và tại phiên tòa người bị hại có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại Cáo trạng số 41/CT-VKSQT ngày 02 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch đã truy tố bị cáo Ngô Xuân P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Ngô Xuân P từ 06 - 09 tháng tù. Về phần dân sự và xử lý vật chứng: không xem xét.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và nhất trí với tội danh, khung hình phạt, mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch đã truy tố, kết tội bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Xuân P đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản mà bị cáo đã thực hiện. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc bảo vệ, quản lý tài sản của người bị hại, đã lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc xe mô tô Yamaha Exciter với giá trị thiệt hại về tài sản là 38.000.000 đồng. Xét thấy, lời khai của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra là hoàn toàn phù hợp và thống nhất, thống nhất với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được tại hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Ngô Xuân P phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cùng các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nói chung, gây tâm lý bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là thanh niên nhưng không cố gắng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để trở thành một người có ích cho xã hội nhưng do ý thức coi thường pháp luật và lười lao động nên đã phạm tội trộm cắp tài sản của người khác để thỏa mãn việc tiêu xài cá nhân. Vì vậy, bị cáo phải bị xét xử nghiêm với hình phạt tương xứng mới đủ tác dụng giáo dục ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật cho bị cáo.

Từ những phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ tác dụng và điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và nhận thức được việc làm sai trái của mình; sau khi phạm tội đã bồi thường đầy đủ cho người bị hại để khắc phục hậu quả; bị cáo đã chủ động tự thú; người bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, r, s Khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để quyết định cho bị cáo một mức án phù hợp.

[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Người bị hại đã nhận được số tiền do bị cáo và gia đình bồi thường. Trong quá trình điều tra và đến tại thời điểm xét xử sơ thẩm người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Xuân P phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Ngô Xuân P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Ngô Xuân P 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 03/8/2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Ngô Xuân P với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13/11/2019) theo Quyết định của Hội đồng xét xử.

2. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Không xem xét.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Xuân P phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13/11/2019) đối với người có mặt và trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án đối với người vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:47/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về