Bản án 47/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 47/2019/HS-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 5 năm 2019 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2019/HSST, ngày 14 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/HSST-QĐ ngày 25/4/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Anh T; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 18/6/1994, tại thành phố D, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 28, khu 2B, phường CP, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn H, sinh năm 1966; và bà Đỗ Thị Th, sinh năm 1972; vợ, con: chưa có; tiền án: Ngày 24/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 33 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 13/4/2018 chấp hành xong hình phạt tù;tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/12/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh.

Người làm chứng: Các anh Trịnh Văn H, sinh năm 1974; Bùi Thanh H, sinh năm 1975; Đặng Tuấn Q, sinh năm 1984 đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 13 giờ 10 ngày 19/12/2018, tại khu vực tổ 90, khu 7B, phường CP, thành phố D, Công an thành phố Cẩm Phả bắt quả tang Vũ Anh T có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần trước bên trái của T: 01 điện thoại di động Microsoft, 01 điện thoại di động Nokia màu đen hồng, 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 đoạn ống hút nhựa, 01 nắp chai nhựa đục hai lỗ, 01 nỏ thủy tinh, 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng; Thu trong tay phải của T 01 điện thoại di động Nokia màu đen; Thu trong túi quần sau bên phải của T số tiền 777.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 50/GĐMT ngày 21/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ của Vũ Anh T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 2,204 gam. Hoàn lại 2,14 gam mẫu vật.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vũ Anh T khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy đá từ năm 2015 đến nay. Do biết H có ma túy bán nên vào khoảng cuối tháng 11 năm 2018, bị cáo mua của H (không rõ lai lịch) một túi ma túy đá với giá 3.000.000 đồng tại khu vực tổ 5, khu T S 2, phường C S, thành phố D, sau đó đem về nhà sử dụng và ai có nhu cầu mua thì bán lại kiếm lời. Nguồn tiền bị cáo mua ma túy của H do bị cáo lao động mà có. Sau khi mua được ma túy bị cáo đã sử dụng và bán cho nhiều người nhưng không nhớ cụ thể, bị cáo chỉ nhớ được thời gian gần đây nhất bị cáo đã 02 lần bán ma túy cho Đặng Tuấn Q tại nhà Q thuộc tổ 102, khu 7B, phường CP, thành phố D gồm:

Lần 1: Vào khoảng 18 – 19 giờ ngày 16/12/2018 khi bị cáo đang ở nhà thì Q gọi điện hỏi mua 500.000 đồng ma túy và bảo mang đến nhà cho Q. Bị cáo đồng ý rồi lấy túi ma túy đá có sẵn ra san một ít vào túi nilon khác sau đó cầm đến nhà Q, bị cáo gọi và đưa ma túy cho Q tại cổng nhà Q. Q đưa cho bị cáo 500.000 đồng gồm 05 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng. Bị cáo cầm tiền rồi đi về nhà.

Lần 2: Vào khoảng 22 giờ ngày 18/12/2018 khi bị cáo đang ở nhà thì Q gọi điện hỏi mua 500.000 đồng ma túy và bảo bị cáo mang đến nhà cho Q. Bị cáo đồng ý và bảo Q chờ một lúc bị cáo sẽ qua, sau đó bị cáo bỏ túi ma túy đá có sẵn trong nhà ra san một ít vào túi nilon khác rồi cầm đến nhà Q, bị cáo gặp Q ở cửa nhà. Q đưa cho bị cáo 500.000 đồng gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng. Bị cáo cầm tiền rồi đưa lại Q 01 gói ma túy đá sau đó bị cáo đi về nhà. Tổng số tiền hai lần bị cáo bán ma túy cho Q bị cáo đã chi tiêu sinh hoạt cá nhân hết.

Việc bị cáo bị Công an bắt quả tang và thu giữ số ma túy ngày 19/12/2018 là ngoài ý muốn của bị cáo vì bị cáo mang theo số ma túy trên nhằm mục đích để bán cho những người có nhu cầu mua nhưng chưa thực hiện được thì bị bắt.

Chiếc điện thoại Nokia màu đen lắp sim số 0337588208 bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy; chiếc điện thoại Nokia màu đen hồng và chiếc điện thoại Microsoft bị hỏng, bị cáo mang đi sửa không liên quan đến việc phạm tội; 01 đoạn ống hút nhựa; 01 nắp chai nhựa đục hai lỗ; 01 nỏ thủy tinh là của bị cáo dùng vào việc sử dụng ma túy, 01 ví giả da màu đen đã cũ bị cáo không yêu cầu nhận lại, số tiền 777.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội. Bị cáo yêu cầu được nhận lại.Viện kiểm sát truy tố, Toà án xét xử ngày hôm nay bị cáo thấy là đúng người đúng tội.

Người làm chứng: Anh Đặng Tuấn Q tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại cơ quan điều tra có lời khai thể hiện: Q và bị cáo ở gần nhà và quen biết chơi với nhau. Q đã nhiều lần mua ma túy của bị cáo để sử dụng nhưng không không nhớ rõ cụ thể các lần mà chỉ nhớ hai lần cụ thể vào khoảng 22 giờ ngày 18/12/2018 và khoảng 18 giờ ngày 16/12/2018 Q có nhu cầu dùng ma túy đá nên đã gọi điện cho bị cáo vào số điện thoại 0337588208 và mua mỗi lần với giá 500.000 đồng hẹn bị cáo cầm ma túy đến nhà Q và bị cáo đồng ý.

Anh Bùi Thanh H và anh Trịnh Văn H cũng có lời khai tại cơ quan điều tra: Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 19/12/2018 hai anh đi ngang qua khu vực đường tàu khu 7B, phường CP thành phố D thì thấy Công an đang bắt giữ và khám xét một nam thanh niên thu giữ: 01 điện thoại di động Microsoft, 01 điện thoại di động Nokia màu đen hồng, 01 điện thoại di động Nokia màu đen; 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 đoạn ống hút nhựa, 01 nắp chai nhựa đục hai lỗ, 01 nỏ thủy tinh, số tiền 777.000 đồng; 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng. (người thanh niên khai tên là Vũ Anh T và túi túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá, T tàng trữ để sử dụng và bán lại cho ai có nhu cầu để kiếm lời).

Tại bản cáo trạng số: 34/CT-VKSCP, ngày 14/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Vũ Anh T tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa cũng đưa ra các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 251; điểm s,r khoản 1 Điều 51; Điểm h, Khoản 2, Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Vũ Anh T từ 07năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 19/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Vũ Anh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khẳng định việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản khám xét; Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ; Bản ảnh chỉ địa điểm vị trí bị cáo bán ma túy cho Q; Biên bản kiểm tra điện thoại; Biên bản xác định địa chỉ địa điểm mua bán ma túy; Sơ đồ vị trí Q mua ma túy của bị cáo; Biên bản nhận dạng và bản ảnh nhận dạng; Kết luận giám định số 50/GĐMT ngày 21/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh. Với các chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 10 ngày 19/12/2018, tại khu vực tổ 90, khu 7B, phường CP, thành phố D, Vũ Anh T có hành vi tàng trữ trái phép 2,204 gam Methamphetamine, với mục đích để bán, thì bị Công an thành phố Cẩm Phả phát hiện bắt giữ. Trước đó, vào các ngày 16/12/2018 và 18/12/2018, tại nhà Đặng Tuấn Q thuộc tổ 102, khu 7B, phường CP, thành phố D, T đã hai lần bán ma túy cho Q, mỗi lần 01 túi ma túy đá giá 500.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo không những gây mất an ninh trật tự của địa phương mà còn tiếp tay cho những kẻ buôn bán ma túy khác. Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng coi thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Đi với: + Đặng Tuấn Q có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Cẩm Phả đã ra Quyết định xử phạt hành chính.

+ Đối tượng H bán ma túy cho Vũ Anh T, hiện không xác định được lai lịch địa chỉ. Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, đã có tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội lần phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự . Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo tự thú khai báo và thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần tuyên truyền giáo dục pháp luật phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, bị cáo có thể bị phạt tiền, xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về Vật chứng: Đối với số ma túy Methamphetamine; Sau khi giám định hoàn lại mẫu vật có trong 01 phong bì còn nguyên dấu niêm phong số 50/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và 01 nỏ thủy tinh; 01 đoạn ống hút nhựa, 01 đoạn chai nhựa đục 02 lỗ; 01 ví giả da màu đen đã cũ bị cáo không yêu cầu nhận lại. Đây là vật cấm lưu hành và liên quan đến việc sử dụng ma túy và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bị cáo đã dùng để liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; 01chiếc điện thoại Nokia màu đen hồng và chiếc điện thoại Microsoft; số tiền 777.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo do thu nhập mà có nên trả lại cho bị cáo. Số tiền 1.000.000 đồng bị cáo đã bán ma túy cho Đặng Tuấn Q là tiền do phạm tội mà có nên buộc bị cáo phải nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b Khoản 2 Điều 251; Điểm r,s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Anh T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Anh T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 19/12/2018.

Căn cứ: Điểm a,b,c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a,c Khoản 2; điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự .

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 50/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 nỏ thủy tinh; 01 đoạn ống hút nhựa, 01 đoạn chai nhựa đục 02 lỗ; 01 ví giả da màu đen đã cũ.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen Buộc bị cáo phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng.

- Trả lại bị cáo: 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen hồng; 01 chiếc điện thoại Microsoft và số tiền 777.000 đồng tuy nhiên tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.

Tình trạng vật chứng được thi hành theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 62/BB- THA, ngày 22/ 3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Anh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm .

Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về