Bản án 47/2019/HS-PT ngày 23/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 47/2019/HS-PT NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 53/2019/TLPT-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Hà Công K do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Hà Công K (tên gọi khác: Không), sinh năm 1982; Nơi cư trú: Tổ dân phố H, thị trấn S, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; con ông Hà Công T và con bà Trần Thị N (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1982 và có 02 con (lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2011); tiền án, tiền sự: Không; Về nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2006/HS-ST ngày 24/01/2006 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt bị cáo Hà Công K 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đến nay bị cáo đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/7/2018 cho đến nay (có mặt).

Ngoài ra trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 25 phút ngày 10/7/2018, Hà Văn Y, trú tại thôn M, xã P, huyện L (là đối tượng nghiện ma túy) đang ở nhà thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy đá nên đã dùng điện thoại di động (thuê bao số 0985831120) của mình gọi cho Hà Công K, trú tại tổ dân phố H, thị trấn S, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (thuê bao số 0987031836) để hỏi mua của Kiểm 500.000đ ma túy đá. Hà Công K đồng ý và hẹn Y đến nhà K tại tổ dân phố H, thị trấn S, huyện L để trao đổi, mua bán ma túy. Sau đó, Y nhờ bạn là Nguyễn Văn B, trú tại xã Như Thụy, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc lái xe máy đưa Y đến nhà K. Khi đến nơi, do không thấy K ở nhà nên Y lại gọi điện thoại cho K và ngồi chờ ở đường bê tông liên thôn giáp cổng nhà K. Một lúc sau, K đi về và tại đây, Y đưa cho K số tiền 500.000đ (bao gồm 05 tờ tiền polyme, mệnh giá 100.000đ/tờ). K cầm tiền đút vào túi quần đang mặc rồi đưa cho Y 01 gói nilon bên trong chứa ma túy đá được gói bằng băng dính màu xanh, Y cầm gói ma túy rồi cùng Bảo đi về. Trên đường đi, Y bóc và vứt bỏ băng dính màu xanh. Khi đi đến khu vực rừng cọ thuộc thôn Cầu Thao, xã Xuân Hòa, huyện L thì Bảo dừng xe, Y lấy ra 01 ống hút bằng nhựa, 01 chai nhựa và một ít ma túy đá vừa mua được của K để sử dụng. Trong khi Y đang sử dụng ma túy đá vừa mua của K thì bị lực lượng Công an huyện L phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng bao gồm:

- Thu giữ trong túi quần bên phải của Y đang mặc 01 gói nilon bên trong chứa các hạt tinh thể dạng đá (Y khai nhận đó là ma túy đá còn lại sau khi sử dụng, Y mua của Hà Công K) niêm phong ký hiệu A1;

- Thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu GOLY màu vàng đồng đã cũ, bên trong lắp sim thuê bao số 0985831120.

- 01 mẩu giấy có ghi các số 753, 889, 440, 537, 496.

- 01 chai nhựa, 01 ống hút nhựa đã qua sử dụng.

Căn cứ vào lời khai của Hà Văn Y về nguồn gốc số ma túy cùng các tài liệu xác minh, cùng ngày 10/7/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện L đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Hà Công K tại tổ dân phố H, thị trấn S, huyện L. Kết quả khám xét đã thu giữ các vật chứng bao gồm:

- Thu giữ tại mặt bàn uống nước nhà K các đồ vật: 01 vỏ chai bằng nhựa màu trắng có nắp màu đỏ được đục thủng lỗ nhỏ, bên trong chai có 01 ống hút bằng nhựa màu trắng; 01 túi nilon màu trắng có kích thước (2 x 2)cm; 01 bình ga mini màu đỏ đã qua sử dụng trên thân bình có chữ Maxvina; 01 đầu khò ga bằng nhựa và kim loại màu xanh trắng đã qua sử dụng.

- Thu giữ tại nền nhà bếp của gia đình Hà Công K số tiền 500.000đ bao gồm 05 tờ tiền polyme mệnh giá 100.000 đ/tờ có các số serri lần lượt là: KL10691889, JO 17510496, EZ 12145440, DS 13832753, FP 10695537.

- Thu giữ trong túi quần bên phải Hà Công K đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen đã qua sử dụng bên trong lắp sim thuê bao số 0987031836.

Cùng ngày 10/7/2018 Cơ quan Công an huyện L quyết định trưng cầu giám định số ma túy thu giữ của Hà Văn Y. Ngày 13/7/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có văn bản số 951/KLGĐ kết luận:

Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methaphetamine (Methaphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, TT 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ). Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,0304 g (Không phảy không ba không bốn gam) không kể bao bì. Khối lượng Methaphetamine có trong 0,0304 g mẫu là 0,0220g (Không phảy không hai hai không gam).

Căn cứ Lệnh thu giữ điện tín số 96 ngày 24/7/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L về việc thu giữ bảng kê chi tiết các cuộc gọi đi, gọi đến, tin nhắn của 02 số điện thoại 0987031836 (của K) và số 0985831120 (của Y) từ ngày 05/7/2018 đến ngày 10/7/2018. Ngày 17/9/2018, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (gọi tắt là Viettel) có Công văn phúc đáp số 1769 thể hiện: Ngày 09/7/2018, số điện thoại của Hà Công K gọi đến số của Hà Văn Y hồi 15 giờ 24 phút với thời gian 28 giây. Ngày 10/7/2018, số điện thoại của Y gọi đến số của K 05 lần, cụ thể: Hồi 10 giờ 29 phút với thời gian 32 giây; hồi 11 giờ 12 phút với thời gian 16 giây; hồi 11 giờ 26 phút với thời gian 07 giây; hồi 11giờ 27 phút với thời gian 03 giây; hồi 11 giờ 28 phút với thời gian 08 giây.

Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2019/HS-ST ngày 02 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Hà Công K 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 10/7/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17 tháng 4 năm 2019 bị cáo Hà Công K có đơn kháng cáo kêu oan và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét.

Tại phiên tòa đại, diện Viện K sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hà Công K, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Hà Công K trong thời hạn luật định, hợp lệ được Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm bị cáo Hà Công K không thừa nhận hành vi phạm tội và luôn cho rằng bản thân không thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho Hà Văn Y vào ngày 10 tháng 7 năm 2018. Tuy nhiên, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được cơ quan điều tra thu thập khách quan, đúng pháp luật như: Lời khai của người liên quan Hà Văn Y; lời khai của người làm chứng Nguyễn Văn B, Hà Công Long, Hà Thị Ngọc Anh; các vật chứng cơ quan điều tra thu giữ trong quá trình giải quyết vụ án và các kết luận giám định của cơ quan chuyên môn……Từ đó có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 10 tháng 7 năm 2018, Hà Công K đã bán trái phép 01 gói ma túy cho Hà Văn Bảo tại đường bê tông liên thôn giáp cổng nhà K ở tổ dân phố H, thị trấn S, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc với giá 500.000đ. Theo kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc xác định chất ma túy do Hà Công K bán trái phép cho Hà Văn Y đã thu giữ là Methaphetamine.

n cứ vào lời khai của bị cáo Hà Công K tại phiên tòa và những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Hà Công K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật không oan sai.

Về tính chất của vụ án là tội phạm nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn công cộng được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Xét về kháng cáo kêu oan của bị cáo Hà Công K; Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

- Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hà Công K cho rằng không quen biết gì Hà Văn Y và buổi sáng ngày 10/7/2018 bị cáo không liên lạc điện thoại với ai (không gọi và nhận cuộc điện thoại nào của ai), chỉ có ba bố con bị cáo ở nhà, hai con của bị cáo cũng không dùng điện thoại của bị cáo để liên lạc cho ai cũng như không nghe điện thoại của ai. Tuy nhiên tại văn bản số 1769 ngày 17/9/2018 của Tập đoàn Viettel, điện thoại của bị cáo hiển thị 05 cuộc gọi của Hà Văn Y cho bị cáo, có đàm thoại (cuộc đàm thoại dài nhất là 32 giây). Trước đó ngày 09/7/2018 chính số điện thoại của bị cáo gọi điện cho Y, cuộc đàm thoại dài 28 giây (bị cáo khai chỉ dùng một số điện thoại là 0987031836). Từ đó có căn cứ xác định buổi sáng ngày 10/7/2018 Hà Văn Y có gọi điện cho bị cáo để trao đổi việc mua ma túy như Y đã khai là đúng sự thật.

- Về số tiền thu tại bếp nhà bị cáo có số seri hoàn toàn trùng với dãy số thu được trong mẩu giấy của Hà Văn Y là người mua ma túy của Hà Công K và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cho rằng chính cơ quan Công an huyện L đã bỏ số tiền trên vào nhà bị cáo. Tuy nhiên, lời khai của bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án đã xác định buổi sáng ngày 10/7/2018 chỉ có 03 bố con bị cáo ở nhà, không có ai vào nhà bị cáo; lối xuống bếp nhà bị cáo có 02 lối nhưng buổi sáng ngày 10/7/2018 gia đình bị cáo chỉ mở lối đi từ trên nhà chính xuống còn lối ra giếng vẫn đang chốt ngang bên trong. Do vậy không thể có việc người khác đem tiền vứt vào bếp nhà bị cáo để vu oan cho bị cáo được. Quá trình khám xét khẩn cấp gian bếp củi của nhà bị cáo có đầy đủ thành phần, người nhà bị cáo chứng kiến theo quy định của pháp luật và bị cáo không có khiếu nại hay ý kiến gì về việc khám xét của cơ quan điều tra. Như vậy có cơ sở để khẳng định số tiền này thu giữ trong bếp nhà bị cáo và là tiền bị cáo bán ma túy cho Y như lời khai của Y là đúng.

- Khi Hà Văn Y và Nguyễn Văn B đứng ở đường bê tông gần nhà bị cáo để Y mua ma túy của bị cáo, lúc đó bị cáo cởi trần nên Y và Bảo nhìn thấy hình săm ở cánh tay của bị cáo là phù hợp với đặc điểm của bị cáo (vì chính bị cáo là người có hình săm ở cánh tay). Việc bị cáo Hà Công K cho rằng Y và Bảo nhìn thấy hình săm trên cánh tay của bị cáo trong lúc tiến hành đối chất là không có cơ sở vì Cơ quan Công an huyện L tiến hành lấy lời khai của Y và Bảo lúc 13 giờ 20 phút ngày 10/7/2018 đã thể hiện nội dung bị cáo có hình săm trên cánh tay, còn thời gian tiến hành đối chất giữa bị cáo với Y bắt đầu lúc 16 giờ 30 phút đến 17 giờ 10 phút ngày 10/7/2018, còn đối chất với Bảo bắt đầu lúc 17 giờ 20 đến 18 giờ ngày 10/7/2018. Như vậy, việc Y và Bảo nhìn thấy hình săm trên cơ thể bị cáo lúc giao dịch mua bán ma túy là có căn cứ.

- Khi Hà Văn Y đến nhà bị cáo để mua ma túy thì không thấy bị cáo ở nhà nên có gọi tên bị cáo và con gái bị cáo là cháu Hà Thị Ngọc A ra trả lời, Y khai lúc đó cháu Anh mặc áo trắng, quần đen phù hợp với lời khai của cháu Anh là buổi sáng hôm đó cháu Anh mặc áo trắng, quần đen.

- Ngoài ra các vật chứng thu giữ khi tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của bị cáo được lý giải không thống nhất trong lời khai, có lúc bị cáo cho rằng ống hút là đồ chơi của con bị cáo, còn túi nylon là túi đựng thuốc của con bị cáo từ trước; có lúc không biết đã thể hiện việc quanh co trối tội, vì đây không phải là đồ chơi của con bị cáo (con của bị cáo khai Công an không thu giữ đồ chơi nào của cháu) mà đây chính là dụng cụ bị cáo vừa sử dụng ma túy đá, mẩu giấy nilon chính là túi đựng ma túy.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Hà Công K vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo cho rằng không thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy mà không cung cấp thêm tài liệu gì mới dùng làm căn cứ cho yêu cầu kháng cáo. Do vậy yêu cầu kháng cáo của bị cáo Hà Công K không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[4] Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Hà Công K; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện L là có căn cứ cần chấp nhận.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Hà Công K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hà Công K, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2019/HSST ngày 02 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện L.

Tuyên bố bị cáo Hà Công K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hà Công K 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 10/7/2018.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Hà Công K phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HS-PT ngày 23/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về