TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 47/2019/HS-PT NGÀY 05/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 05/4/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 22/TLPT-HS ngày 08/01/2019 đối với bị cáo Vương Mã H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
- Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Vương Mã H, Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 02/12/2002 tại xã T, huyện Y; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn H, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Tự do; Chức vụ: Không có; Văn hóa: 7/12; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; con ông Vương Văn M, sinh năm 1978 (đã chết) và Phạm Thị H, sinh năm 1982;Vợ, con: Chưa có; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất; Tiền án: không có; Tiền sự: Không có; Tạm giữ, tạm giam: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa).
- Đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Hoàng Thị M, sinh năm 1955. (có mặt tại phiên tòa). Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
- Người bào chữa cho bị cáo Vương Mã H:
1. Ông Trần Công T - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư V - Đoàn luật sư tỉnh Bắc Giang. (xin vắng mặt tại phiên tòa).
2. Bà Nguyễn Thị H, bà Giáp Thị H - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Giang. (có mặt tại phiên tòa).
- Người bị hại: Anh An Văn T1, sinh ngày 14/10/2001. (Xin vắng mặt tại phiên tòa). Địa chỉ: Thôn Đ, xã A, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1977. (Xin vắng mặt tại phiên tòa). Địa chỉ: Thôn Đ, xã A, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 29/4/2018, Vương Mã H, sinh ngày 02/12/2002 ở thôn H, xã T, huyện Y cùng Nguyễn Văn H1, sinh ngày 13/01/2003 ở thôn T, xã T, huyện Y đi xe mô tô vào nhà T mục đích tìm T1 để đánh nhau với T1. Khi H và H1 đến khu vực nhà sàn của gia đình T thì thấy T và Lăng Minh H2, sinh ngày 07/01/2002 ở thôn Đ, xã T, huyện Y là bạn T đang đứng ở dưới sân chơi. H hỏi T có biết T1 đang ở đâu không thì được T cho biết T1 đi làm, lúc nữa T1 cũng đến nhà T chơi. Nghe vậy, H ra mở cốp xe mô tô vừa đi đến lấy ra 01 con dao nhọn bằng kim loại màu trắng, dạng dao gập, chiều dài khi mở lưỡi dao ra là 16,9cm, chiều dài dao khi gập lưỡi dao là 9,5cm, lưỡi dao chỗ rộng nhất là 1,5cm, mũi lưỡi dao nhọn, trên lưỡi dao có chữ "stainless" để vào túi quần phía sau bên phải của H mục đích để đánh nhau với T1. Quá trình nói chuyện với H1, T và H2 thì H có đưa dao đó cho mọi người xem xong lại cất vào túi quần phía sau bên phải, khi đó H đã bật sẵn lưỡi dao ra. Sau đó H2, T lên trên nhà sàn còn H1, H chơi ở khu vực dưới sân, mục đích H đợi T1 đến để đánh. Khoảng 16 giờ cùng ngày, T1 đi xe mô tô kèm Hà Văn H3, sinh ngày 09/9/2001 ở thôn T, xã T, huyện Y đến nhà T. Khi thấy T1 đến, H đi bộ tiến về phía T1. T1 dựng xe mô tô và cũng đi bộ tiến về phía H. Khi cách nhau khoảng 50cm, ở tư thế đối diện, H và T1 đứng nhìn thẳng vào mặt nhau vẻ thách thức. T1 dùng tay đẩy vào ngực H khiến H bị đẩy lùi lại phía sau, H lao vào dùng tay đẩy T1. Khi thấy H lao đến thì T1 cũng tiến về phía H rồi dùng tay trái túm cổ bên phải H, tay phải đấm liên tiếp vào vùng đầu bên trái H. Lúc này H giơ cánh tay trái lên ngang trán, đầu, ở tư thế người hơi khom rồi đẩy vào vùng ngực T1 làm T1 lùi lại phía sau. T1 đẩy lại H thì ngay lập tức tay phải H lấy từ trong túi quần phía sau bên phải con dao nhọn đã chuẩn bị trước đó. Tay phải H cầm phần chuôi, mũi dao hướng phía ngón cái và đâm 2 phát liên tiếp hướng từ dưới lên trên, từ sau ra trước. Phát thứ nhất vào vùng bụng bên trái, phát thứ hai vào vùng khuỷu tay trái T1. Sau khi bị H đâm, T1 dùng tay trái túm tay cầm dao của H, T1 dùng tay phải đấm và dùng gối thúc vào vùng bụng, ngực H rồi quật H ngã nằm ra sân và đè lên người H. Do T1 bảo nên H2 đến giằng dao từ tay H, can H và T1 ra, sau đó H2 đưa con dao cho T. Khi vừa đứng dậy, H lại lao vào để đánh T1 thì bị T1 đấm rồi ôm quẳng qua hàng rào lưới B40 xuống ruộng. H túm được vào hàng rào trèo lên sân thì T1 tiếp tục ôm và quẳng H qua hàng rào lưới B40 xuống ruộng. Sau đó T1 được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Y và Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang, H và H1 lấy xe mô tô đi khỏi nhà T.
Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, phát hiện và thu giữ tại sân nhà T dấu vết màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt.
Ngày 29/4/2018, Cơ quan điều tra thu giữ của T con dao nhọn của H dùng đâm T1 ( do H2 giằng được đưa cho T sau khi H đâm T1); Thu giữ của T1 chiếc áo T1 mặc khi bị H đâm gây thương tích.
Tại Giấy chứng nhận thương tích ngày 08/5/2018 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang thể hiện: An Văn T1 vào viện lúc 18 giờ 30 phút ngày 29/4/2018, ra viện ngày 07/5/2018. Tình trạng thương tích lúc vào viện: Tỉnh; Vết thương thấu bụng: đại tràng Sigma có vết đâm 02 lỗ xuyên táo, tụ máu phúc mạc thành sau, vết đâm vào tĩnh mạch mạc treo tràng, kích thước 0.5x1cm; Vết thương khuỷu tay trái, kích thước 0.5 x 2cm.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 8265/18/TgT ngày 31/5/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bắc Giang kết luận: Thương tích vết sẹo mặt sau khủy tay trái kích thước (1 x 0,2)cm: 01%; Thương tích vết sẹo mặt sau khuỷu tay trái kích thước (1,2 x 0,2)cm: 1%; Thương tích vết sẹo thành bụng trái + Vết sẹo mổ đường trắng giữa trên và dưới rốn + Ba vết sẹo mổ dẫn lưu + Đại tràng Sigma có vết đâm hai lỗ xuyên táo đã làm hậu môn nhân tạo + Rách tĩnh mạch mạc treo tràng trên đã được khâu cầm máu: 63%. Căn cứ Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 64%(Sáu tư phần trăm). Cơ chế hình thành thương tích: Các thương tích do vật sắc nhọn gây nên. Chiều hướng, lực tác động gây nên thương tích: Thương tích vết sẹo thành bụng trái chiều hướng từ trước ra sau, lực tác động mạnh; thương tích hai vết sẹo vùng khuỷu tay trái không xác định được chiều hướng gây thương tích, lực tác động nhẹ.
Tại Kết luận giám định số 684/KL-PC54 ngày 30/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Mẫu máu An Văn T1 gửi giám định thuộc nhóm máu B; trên mẫu vật thu tại hiện trường có ký hiệu M1 được niêm phong gửi giám định có máu người thuộc nhóm máu B; trên con dao nhọn ký hiệu M2 được niêm phong gửi giám định không phát hiện thấy dấu vết máu(Bút lục số 36, 37).
Kết quả thực nghiệm điều tra, Vương Mã H thực hiện thuần thục các động tác dùng dao đâm An Văn T1.
Bản cáo trạng số: 37/CT-VKS-YT ngày 09/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo Vương Mã H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.
Với nội dung trên bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang đã xét xử và quyết định: Tuyên bố Vương Mã H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm d Khoản 4 Điều 134, điểm b, điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; khoản 2 Điều 12; Điều 38; Điều 54 khoản 2 Điều 101 bộ luật hình sự năm 2015, Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Xử phạt: Vương Mã H 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi cấp sơ thẩm xét xử xong, ngày 10/12/2018 bị cáo Vương Mã H có đơn kháng cáo với nội dung: không đồng ý với mức án 2 năm tù, đề nghị TAND tỉnh Bắc Giang giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Vương Mã H trình bày: Về tội danh bị cáo không thắc mắc gì, bị cáo bị xử là đúng người, đúng tội, không oan sai. Về hình phạt thì bị cáo xin được hưởng án treo do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố chết, mẹ bỏ đi làm ăn xa không rõ địa chỉ, bị cáo và em gái sinh năm 2005 đang ở với bà nội đã già yếu. Hoàn cảnh kinh tế khó khăn thuộc hộ nghèo nên xin được hưởng án treo để có cơ hội cải tạo tốt và làm ăn giúp đỡ cho bà.
- Đại diện hợp pháp của bị cáo nhất trí nội dung kháng cáo, lý do kháng cáo như bị cáo đã trình bày.
- Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Nội dung bị cáo trình bày là đúng, đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nêu ra đã kết luận và đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 355; Điều 356- Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vương Mã H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo.
- Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Về tội danh nhất trí quan điểm của Viện kiểm sát. Về hình phạt đề nghị xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo có nhiều khó khăn; nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội do trước đó một tuần bị hại T1 đã có hành vi đạp xe máy của bị cáo đang tham gia giao thông khiến bị cáo bị ngã xây sát người nên có lỗi của bị hại. Sau khi gây án bị cáo đã cùng gia đình bồi thường cho bị hại và hai bên đã hòa giải, thông cảm cho nhau, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và xin cho bị cáo được hưởng án treo. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên, mới có 15 năm 04 tháng 27 ngày tuổi. Bị cáo phạm tội do nhận thức pháp luật còn hạn chế, nông nổi, hạm chơi, bồng bột. Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, đã nhận thức được sai lầm nên đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo, cho bị cáo được hưởng án treo. Về án phí miễn cho bị cáo do là trẻ em.
- Bị cáo Vương Mã H tranh luận: Nhất trí nội dung tranh luận của người bào chữa, không có ý kiến gì khác.
- Đại diện hợp pháp của bị cáo: Nhất trí nội dung tranh luận của người bào chữa, không có ý kiến gì khác.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến đối đáp với các ý kiến tranh luận : người bào chữa cho rằng có tình tiết giảm nhẹ mới là người bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo, đại diện Viện kiểm sát thấy không có căn cứ chấp nhận vì đây là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2, Điều 51- BLHS đã được cấp sơ thẩm xem xét áp dụng rồi.
*Kết thúc tranh luận các bên giữ nguyên quan điểm.
*Bị cáo nói lời sau cùng: Mong HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện cải tạo tốt và giúp đỡ gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Vương Mã H được làm trong thời hạn kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định tại các Điều 331, 332, 333- Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt có lý do. Xét thấy họ đã có lời khai tại cơ quan điều tra, thể hiện quan điểm trong hồ sơ vụ án. Do vậy, sự vắng mặt không ảnh hưởng việc xét xử, HĐXX quyết định xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 351- Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3]. Về tội danh xét xử đối với bị cáo, HĐXX thấy:
Qua quá trình xét hỏi tại phiên tòa, căn cứ vào kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thấy đủ cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ ngày 29/4/2018 tại nhà của Trần Minh T ở thôn T, xã A, huyện Y do có mâu thuẫn từ trước nên Vương Mã H đã dùng 01 con dao nhọn đã chuẩn bị từ trước đâm 02 phát liên tiếp về phía An Văn T1, phát thứ nhất vào vùng bụng bên trái, phát thứ hai vào vùng khuỷu tay trái của T1 gây thương tích có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 64% (sáu tư phần trăm). Hành vi của bị cáo Vương Mã H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm d, khoản 4, Điều 134- Bộ luật hình sự năm 2015.
Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HS-ST ngày 28/11/ 2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang xét xử bị cáo theo quy định tại điểm d, khoản 4, Điều 134- Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định pháp luật, không oan sai.
[4]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Vương Mã H, HĐXX thấy:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã tích cực tác động gia đình bồi thường cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51-BLHS, bản án sơ thẩm đã đánh giá và áp dụng cho bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Do vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.
Tuy nhiên khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới có 15 năm 04 tháng 27 ngày tuổi nên nhận thức pháp luật có sự hạn chế. Án sơ thẩm sau khi đánh giá toàn diện, khách quan hành vi phạm tội của bị cáo, tính chất mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo đã xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, không nặng và đã có sự chiếu cố đối với bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vương Mã H không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Hội đồng xét xử thấy: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống, sinh hoạt tại địa phương nhưng bị cáo lại chuẩn bị sẵn dao nhọn (là hung khí nguy hiểm) và chủ động đi tìm bị hại để đánh nhau. Quá trình hai bên đánh nhau bị cáo dù yếu thế hơn về sức khỏe nhưng lại hành vi lại thể hiện sự quyết liệt, khi được can ngăn vẫn không chịu từ bỏ ý định đánh nhau. Vì vậy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo cũng như quan điểm đề nghị của người bào chữa cho bị cáo cần giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo Vương Mã H như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Án phí: Bị cáo là trẻ em, người dân tộc sống tại vùng đặc biệt khó khăn nên được miễn tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào điểm a, khoản 1 và khoản 2 Điều 355, Điều 356- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vương Mã H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 39/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang .
[2]. Áp dụng điểm d, khoản 4, Điều 134; điểm b, điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; khoản 2, Điều 12; Điều 38; Điều 54; Điều 90; Điều 91; khoản 2, Điều 101 -Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 331; Điều 333; Điều 414 - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vương Mã H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vương Mã H 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
[3].Án phí: Áp dụng điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Vương Mã H không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 47/2019/HS-PT ngày 05/04/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 47/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về