Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 47/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2577/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2018, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/4/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 117/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06/5/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố B

- Nguyên đơn: Bà Thi Thị V, sinh năm 1969.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1972

Cùng hộ khẩu thường trú: 243, Khu phố 6, phường L, thành phố B tỉnh Đ.

(Bà Thi Thị V có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Đức H vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 03/01/2019, nguyên đơn bà Thi Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Đức H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 09/08/2004 tại UBND phường L, thành phố B, tỉnh Đ và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 244/2004, quyền số 02/2004. Thời gian đầu, hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Tuy nhiên thời gian gần đây vợ chồng thường phát sinh nhiều mâu thuẫn, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, ông H không còn tôn trọng bà, giữa bà và ông H thường xảy ra cải vã, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Ngoài ra ông H không chung thủy, có mối quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác. Bản thân bà đã nhiều lần khuyên nhủ, động viên ông H thay đổi nhưng không có kết quả. Đến nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông H.

Về con chung: Trong quá trình chung sống ông H và bà có 01 con chung là cháu Nguyễn Đức Việt Kh, sinh ngày 02/8/2005. Hiện cháu Kh đang sống cùng bà và do bà trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Do đó, sau khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi cháu Khoa, tạm thời không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà V khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn - ông Nguyễn Đức H: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không đến làm việc và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.

- Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B:

- Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

- Về quan hệ hôn nhân: Hồ sơ vụ án thể hiện bà Vui và ông H có đăng ký kết hôn vào năm 2004. Hôn nhân tự nguyện, hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Theo bà V trình bày quá trình chung sống cả hai vợ chồng không hạnh phúc, nguyên nhân xuất phát từ việc vợ chồng bất đồng quan điểm, ông H có mối quan hệ ngoài luồng dẫn đến không còn tôn trọng bà mặc dù bà đã nhiều lần khuyên nhủ, động viên ông H thay đổi nhưng không có kết quả. Do không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà V làm đơn xin được ly hôn với ông H. Như vậy, vợ chồng không hàn gắn đoàn tụ được chứng tỏ hôn nhân giữa vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Xét thấy nguyện vọng của cháu Nguyễn Đức Việt Kh muốn ở với bà Vui. Vì vậy, giao con chung cho bà Vui trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Do không có lời khai của ông Nguyễn Đức H nên tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Căn cứ vào Điều 89, 91; 92 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 và 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà V được ly hôn với ông H.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Đức Việt Kh, sinh ngày 02/8/2005 cho bà V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cả trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Do không có lời khai của ông Nguyễn Đức H nên tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà Thi Thị V phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

- Bà Thi Thị V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Đức H; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà Thi Thị V là nguyên đơn, còn ông Nguyễn Đức H là bị đơn trong vụ án.

- Theo biên bản xác minh ngày 22/02/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố B tại Công an phường L, thì hiện nay ông Nguyễn Đức Hùng hiện đang cư trú tại số nhà: 243, Bùi Văn H, Khu phố 6, phường L, thành phố B, tỉnh Đ. Do đó, căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B

- Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Đức H, nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, tiếp cận, công khai chứng cứ; hòa giải và tham gia phiên tòa. Ngoài ra, vào ngày 30/05/2019, bà Thi Thị V có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt bà V và ông H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà V và ông Nguyễn Đức H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 09/08/2004 tại UBND phường L, thành phố B, tỉnh Đ và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 244/2004, quyền số 02/2004. Theo bà V khai, thời gian đầu sau khi kết hôn cả hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Tuy nhiên thời gian gần đây vợ chồng thường phát sinh nhiều mâu thuẫn, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, ông H không còn tôn trọng bà, giữa bà và ông H thường xảy ra cải vã, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Ngoài ra ông H không chung thủy, có mối quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác. Bản thân bà đã nhiều lần khuyên nhủ, động viên ông H thay đổi nhưng không có kết quả. Đến nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông H.

Xét yêu cầu ly hôn của bà V là có cơ sở chấp nhận vì: Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng, trong quá trình chung sống; vợ chồng bà V và ông H mặc dù sống chung nhà nhưng vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn rất nghiêm trọng, không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Theo Biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thành phố B ngày 27/3/2019, tại Khu phố 6, phường L, TP.B về tình trạng mâu thuẫn vợ chồng thì chính quyền địa phương cho biết giữa hai vợ chồng bà V và ông H thực chất có mâu thuẫn, hiện cả hai đã sống ly thân. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà V và ông H đã đến mức trầm trọng, tình cảm với nhau không còn, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Thi Thị V được ly hôn với ông Nguyễn Đức H.

[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống ông H và bà V có 01 con chung là cháu Nguyễn Đức Việt Kh, sinh ngày 02/8/2005. Hiện cháu Kh đang sống cùng bà V và do bà V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Do đó, sau khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi cháu Kh, tạm thời không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét yêu cầu này của bà V là chính đáng, bởi lẽ theo nguyện vọng của cháu Kh muốn được ở cùng bà V, bà V cam kết đủ khả năng nuôi dưỡng chăm sóc cháu Kh. Mặt khác, ông H hiện đang cư trú cùng nhà với bà V và cháu Kh nhưng không có sự quan tâm đến vợ con. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao Kh cho bà V được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để tạo điều kiện tốt nhất cho các cháu về mặt ổn định tinh thần cũng như học tập sau này. Mặt khác, ông H vẫn đang được đảm bảo quyền thăm nom, chăm sóc con chung.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà V xác định về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có và cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do ông H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông H, nên sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Thi Thị V phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 89, 91; 92 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thi Thị V. Bà Thi Thị V được ly hôn với ông Nguyễn Đức H.

Về con chung: Giao Nguyễn Đức Việt Kh sinh ngày 02/8/2005 cho bà Vui trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Vui và ông H vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Ông H có quyền thăm nom con; không ai được cản trở thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, bà V xác định về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có và cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do ông H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông H, nên sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Thi Thị V phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 009739 ngày 27/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Bà V đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm

Bà Thi Thị V và ông Nguyễn Đức H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:47/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về