Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 21/01/2019 về ly hôn giữa chị Trần Thị Thu M và anh Trần Quốc T

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TP. NĐ - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 47/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ TRẦN THỊ THU M VÀ ANH TRẦN QUỐC T

Ngày 21 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 502/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu M, sinh năm 1990; Địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 332 đường LTV - phường CB - thành phố NĐ - tỉnh Nam Định; Địa chỉ cư trú: Số nhà 848 C Ô cũ - xã LH - thành phố NĐ - tỉnh Nam Định; có mặt

Bị đơn: Anh Trần Quốc T, sinh năm 1985; Địa chỉ cư trú: Số nhà 332 đường LTV - phường CB - thành phố NĐ - tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện tranh chấp hôn nhân và gia đình đề ngày 01-12-2018, bản tự khai ngày 10-12-2018 và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trần Thị Thu M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Quốc T có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 5 tháng sau đó tô chưc lê cươi va có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường CB - thành phố NĐ vào ngày 26-7-2011 trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh T ham chơi, không chăm lo đến gia đình. Hai bên gia đình đã có nhiều biện pháp hòa giải nhưng vợ chồng vẫn không giải quyết được mâu thuẫn. Bản thân chị đã cho anh nhiều cơ hội nhưng anh vẫn ham chơi và không chăm lo đến gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Chị đề nghị Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.

- Về nuôi con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Trần Hà L, sinh ngày 12-11-2011. Nếu ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc vì chị có đủ điều kiện để nuôi dưỡng và chăm sóc con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân thành phố Nam Định đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Trần Quốc T nhưng anh T không đến Toà án theo giấy triệu tập.

3. Tại biên bản thu thâp chưng cư về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, đại diện Tổ dân phố nơi anh Trần Quốc T cư trú cung cấp:

Vợ chồng anh Trần Quốc T và chị Trần Thị Thu M có đăng ký kết hôn tại UBND phường CB, thành phố NĐ. Anh Trần Quốc T đăng ký hộ khẩu và hiện đang sinh sống tại số nhà 332 đường LTV,phường CB, thành phố NĐ. Chính quyền địa phương không biết nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng anh chị. Về con chung: vợ chồng chị M và anh T có một con chung là Trần Hà L. Đại diện tổ dân phố đề nghị Toà án giải quyết về quan hệ hôn nhân và con chung của chị M và anh T theo quy định của pháp luật.

4. Tại đơn đề nghị đề ngày 10-12-2018, cháu Trần Hà L - con chung của chị M và anh T trình bày:

Nếu bộ mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ.

5. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký phiên toà trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án: Đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, chị M đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; anh T không đến Tòa án để giải quyết vụ án mặc dù Tòa án đã giao các văn bản tố tụng hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Thu M và anh Trần Quốc T; Giao cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Trần Hà Linh, sinh ngày 12-11-2011. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Trần Thị Thu M không yêu cầu anh Trần Quốc T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Trần Quốc T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, hội đồng xét xử xử vắng mặt anh Trần Quốc T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Trần Thị Thu M và anh Trần Quốc T là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn chị M khai do anh T ham chơi, không chăm lo đến gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay, không quan tâm chăm sóc nhau. Nay chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn. Xét hôn nhân giữa anh Trần Quốc T và chị Trần Thị Thu M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị M, xử cho chị Trần Thị Thu M và anh Trần Quốc T ly hôn theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về nuôi con chung: Chị Trần Thị Thu M và anh Trần Quốc T có một con chung là cháu Trần Hà L, sinh ngày 12-11-2011. Hiện nay cháu L đang được chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Cháu Linh có nguyện vọng được ở với mẹ. Xét hiện tại cháu L đang sinh sống ổn định cùng chị M, chị M có đầy đủ điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc con. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cháu Trần Hà L cho chị Trần Thị Thu M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với qui định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị Thu M tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung, vì vậy Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3] Về chia tài sản chung: Chị Trần Thị Thu M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Chị M phải nộp theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147; của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

1. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Thu M và anh Trần Quốc T.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Trần Hà L, sinh ngày 12-11-2011 cho chị Trần Thị Thu M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận sự tự nguyện của chị Trần Thị Thu M không yêu cầu anh Trần Quốc T cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Trần Quốc T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Thu M phải nôp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Số tiền này được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị M đã nộp tại biên lai số 0000328 ngày 04-12-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

4. Chị Trần Thị Thu M được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Quốc T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 21/01/2019 về ly hôn giữa chị Trần Thị Thu M và anh Trần Quốc T

Số hiệu:47/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về