TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 47/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 11 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXX-ST ngày 23/9/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hữu N, sinh năm 1973, có mặt
Địa chỉ: thôn H, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.
2. Bị đơn: Chị Đặng Thị H, sinh năm 1979, có mặt;
Địa chỉ: thôn T, xã Q1, huyện K, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại các đơn khởi kiện đề ngày 08/3/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn- anh Nguyễn HữuN trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh N và chị H tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 01/12/2003 tại UBND xã Quang Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng bố mẹ anh N và sinh được 03 con chung. Quá trình chung sống đến năm 2018 thì vợ chồng mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, tháng 9/2018 chị H đã mang theo 02 con chung về nhà bố mẹ đẻ chị H ở thôn T, xã Q1 sinh sống từ đó đến nay. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay anh N xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị H, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H.
- Về quan hệ con chung: Anh và chị H có 03 con chung là Nguyễn Quỳnh M sinh ngày 22/8/2004 đang ở cùng anh N, Nguyễn Mai P sinh ngày 26/01/2008 và Nguyễn Hồng A sinh ngày 25/11/2014 đang ở cùng chị H, Ly hôn anhN có nguyện vọng được nuôi dưỡng 03 con chung, nếu không thì anh có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu MM và cháu A, chị H nuôi dưỡng cháu P. AnhN không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi 02 con chung.
- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có tạo lập được một số tài sản và có vay tiền của bà Y, anh Bảo, anh Đôn, chị Hường và vợ chồng anh Hưởng chị Liễu. Ngày 12/8/2019, vợ chồng anh đã tự thỏa thuận giải quyết xong về tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn - chị H trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình vợ chồng chung sống sau kết hôn đúng như anhN trình bày. Vợ chồng mâu thuẫn nguyên nhân là do chị sinh 03 con gái. Nay anhN xin ly hôn thì chị đồng ý. Vợ chồng chị có 03 con chung là Nguyễn Quỳnh M sinh ngày 22/8/2004 đang ở cùng anhN, Nguyễn Mai P sinh ngày 26/01/2008 và Nguyễn Hồng A sinh ngày 25/11/2014 đang ở cùng chị. Ly hôn chị H có nguyện vọng được nuôi cả 03 con chung, nếu không được nuôi cả 03 con thì chị đề nghị được nuôi dưỡng 02 con chung là cháu P và cháu A. Tại phiên tòa chị H không yêu cầu anhN cấp dưỡng nuôi 02 con chung.
- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có tạo lập được một số tài sản và có vay tiền của bà Y, anh B, anh Đ, chị H và vợ chồng anh H1 chị L. Vợ chồng chị đã tự thỏa thuận giải quyết xong tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Tại đơn đề nghị Tòa án giải quyết số tiền 266.000.000 đồng và bản tự khai ngày 10/7/2019, biên bản ghi lời khai ngày 17/7/2019, bà Bùi Thị Y, sinh năm 1951 trình bày: Năm 2010, bà cho vợ chồng anh N chị H vay số tiền 266.000.000 đồng. Ngày 11/7/2019, Tòa án thụ lý yêu cầu độc lập của bà Y. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H đã thanh toán trả bà số tiền 166.000.000 đồng trong tổng số tiền 266.000.000 đồng mà vợ chồng đã vay. Ngày 30/8/2019, bà Y viết đơn xin rút toàn bộ yêu cầu độc lập đối với số tiền 266.000.000 đồng bà cho vợ chồng anhN chị H vay. Ngày 30/8/2019, Tòa án đã quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập đối với số tiền 266.000.000 đồng của bà Bùi Thị Y.
* Tại bản tự khai ngày 01/7/2019, anh Nghiêm Xuân B, anh Lê Quý Đ, chị Nguyễn Thị H, vợ chồng anh H1 chị L đều trình bày: năm 2010, vợ chồng anh N, chị H vay của anh B số tiền 5.000.000 đồng, anh Đ số tiền 20.000.000 đồng, chị H số tiền 24.000.000 đồng, vợ chồng anh H1 chị L số tiền 96.000.000 đồng. Tại giấy xác nhận đề ngày 11/8/2019, chị H, anh Đ, anh B, vợ chồng anh H1 chị L đều xác nhận: đến tháng 8/2019 anh N đã thanh toán trả cho anh B, anh Đ, chị H, vợ chồng anh H1 chị L toàn bộ số tiền mà vợ chồng anh N chị H đã vay.
Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:
Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận cho anhN được ly hôn chị H.
Về quan hệ con chung: Áp dụng điều 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Giao cho anhN trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Quỳnh M; giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu Nguyễn Hồng A và Nguyễn Mai P. Chấp nhận việc chị H không yêu cầu anhN cấp dưỡng nuôi 02 con chung.
Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng anh N chị H đã tự thỏa thuận giải quyết xong ngày 12/8/2019, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều trình bày vợ chồng anh N chị H đã thanh toán trả hết số tiền đã vay. Bà Y là người có quyền lợi liên quan có yêu cầu độc lập xác nhận chị H đã thanh toán trả bà số tiền 166.000.000 đồng trong tổng số tiền 266.000.000 đồng mà vợ chồng chị đã vay. Ngày 30/8/2019, bà Y viết đơn xin rút toàn bộ yêu cầu độc lập đối với số tiền 266.000.000 đồng bà đã cho vợ chồng anh N chị H vay. Ngày 30/8/2019, Tòa án đã quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập của bà Bùi Thị Y.
Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, anh N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]- Về thủ tục tố tụng: Anh N xin ly hôn chị H, cà hai vợ chồng đều có hộ khẩu thường trú tại UBND xã Q huyện K nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung và tài sản chung vợ chồng, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, anh N kết hôn với chị H trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quang Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo anh N là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, còn theo chị H là do chị sinh 03 con gái. Anh N và chị H đã sống ly thân từ tháng 9/2018 đến nay, vợ chồng không còn quam tâm đến nhau. Anh N xin ly hôn, chị H đồng ý ly hôn. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa anh N và chị H không còn, mâu thuẫn đã đến mức độ trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải chấp nhận xử cho anh N được ly hôn chị H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[4]Về quan hệ con chung: Vợ chồng anh N chị H có 03 con chung là Nguyễn Quỳnh M, Nguyễn Mai P và Nguyễn Hồng A. Ly hôn cả anh N và chị H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu người kia cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, cả anh N và chị H đều có điều kiện vật chất để nuôi dưỡng con chung và nuôi con là quyền lợi và nghĩa vụ của cả bố và mẹ, nhưng việc giao con cho ai nuôi phải đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con.
Cháu M đã lớn và có nguyện vọng ở với bố nên cần giao cho anhN tiếp tục nuôi dưỡng cháu M. Cháu P và cháu A đang ở cùng chị H tại nhà ông bà ngoại các cháu, cháu Hồng A còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc của mẹ nhiều hơn. Vì vậy, để đảm bảo môi trường sống và học tập ổn định cho các con chung cần giao cháu M cho anh N tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu P và cháu A cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị H không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi 02 con chung là hoàn toàn tự nguyện cần chấp nhận. Anh N, chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.
[5] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung:
[5.1] Anh N và chị H đã tự thỏa thuận giải quyết xong về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5.2] Những người cho vợ chồng anh N chị H vay tiền đều đã xác nhận: anh N đã thanh toán trả hết số tiền đã vay nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5.3] Ngày 30/8/2019, bà Y xác nhận chị H đã thanh toán trả cho bà số tiền 166.000.000 đồng trong tổng số 266.000.000 đồng bà cho vợ chồng anh N chị H vay và có đơn xin rút toàn bộ yêu cầu độc lập đối với số tiền 266.000.000 đồng. Ngày 30/8/2019, Tòa án đã quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập của bà Y theo quy định tại khoản 2 Điều 70, Điều 202, khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự.
[6] Về án phí: anh N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Hữu N được ly hôn chị Đặng Thị H.
2. Về quan hệ con chung: Giao cháu Nguyễn Quỳnh M sinh ngày 22/8/2004 cho anh Nguyễn Hữu N trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Mai P sinh ngày 26/01/2008 và cháu Nguyễn Hồng A sinh ngày 25/11/2014 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. chị H không yêu cầu anhN cấp dưỡng nuôi 02 con chung. Anh N, chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự đã tự thỏa thuận giải quyết xong về tài sản chung, nợ chung nên Tòa án không giải quyết.
4. Về án phí: Anh Nguyễn Hữu N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 28.000.000 đồng theo biên lai thu số 0001398 ngày 08/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương. Như vậy anh N được nhận lại 27.700.000 đồng.
5. Về quyển kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 47/2019/HNGĐ-ST ngày 11/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 47/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về