Bản án 47/2018/HS-ST ngày 03/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 47/2018/HS-ST NGÀY 03/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 03 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2017/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2017/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2017 đối với các bị cáo:

Họ và tên: Lữ Anh T, sinh năm 1987, tại huyện Ms, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu A, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lữ Anh N – sinh năm 1949; con bà Bùi Thị C (Đã chết); có vợ là Hà Đan T (Đã ly hôn); chưa có con. Nhân thân. Tiền án: Ngày 12/7/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam, giữ từ ngày 03/11/2017 đến nay. Có mặt.

Họ và tên: Đỗ Trọng S, sinh năm 1968, tại huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký HKTT: Tiểu khu C, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi ở hiện nay: Tiểu khu A, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Quan trắc viên Trạm khí tượng Nông nghiệp M, huyện M; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Trọng T – sinh năm 1929, con bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1929. Bị cáo có hai vợ. Vợ thứ nhất: Lê Thị V – sinh năm 1970 (Đã ly hôn) . Vợ thứ hai: Phạm Thị Y – sinh năm 1969. Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 2001. Nhân thân: Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam, giữ từ ngày 03/11/2017 đến nay. Có mặt.

Họ và tên: Đinh Việt H, sinh năm 1988, tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký HKTT: Ngõ B, đường Đ, tổ F, phường T, thành phố S, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn Đ – sinh năm 1960; con bà Lê Thị M – sinh năm 1963. Bị cáo chưa có vợ, con. Nhân thân tiền án:

+ Ngày 29/4/2010 bị TAND thành phố S xử phạt 09 tháng tù giam về tội Không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.

+ Ngày 22/6/2011 bị TAND thành phố S xử phạt 30 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

+ Ngày 10/9/2014 bị TAND thành phố S xử phạt 30 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam, giữ từ ngày 03/11/2017 đến nay. Có mặt.

Họ và tên: Đinh Thị S (Tên gọi khác Đinh Ngọc L), sinh năm 1992, tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Bản C, xã C, huyện V, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Thái; giới tính Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Công K – sinh năm 1966, con bà Vì Thị T – sinh năm 1973. Bị cáo có chồng là Lê Mạnh C, sinh năm 1989 (Đã ly hôn). Bị cáo có 01 con, sinh năm 2013. Nhân thân: Tiền án, tiền sự: Không, bị bắt, tạm giam, giữ từ ngày 03/11/2017 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22h 45 phút ngày 02/11/2017, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại tiểu khu A, thị trấn N, huyện Mộc Châu đã bắt quả tang Trần Văn S – sinh năm 1980; trú tại: Tiểu khu V, thị trấn M và Bùi Văn T– sinh năm 1980; trú tại: Tiểu khu L, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ở ven đường, vật chứng thu giữ trên tay S 01 bật lửa ga, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 mảnh ni lon mầu trắng có quấn băng dính mầu đen. Quá trình bắt giữ cả hai S và T khai nhận vừa sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp dạng đá xong, về nguồn gốc ma túy mà có để sử dụng là mua của Đinh Thị S (Tên gọi khác Đinh Ngọc L) và Đinh Việt H ở phòng tập thể của Trạm khí tượng nơi Đỗ Trọng S làm việc với giá 510.000đ. Căn cứ vào hành vi vi phạm và tang vật thu giữ, Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải San và Tín về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra xử lý.

Quá trình điều tra đã xác định được việc bán ma túy cho S và T có các đối tượng cùng tham gia gồm: Đinh Thị S (Tức Đinh Ngọc L), Đinh Việt H, Đỗ Trọng S, và Lữ Anh T. Ngày 03/11/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu đã ra lệnh bắt khẩn cấp với các đối tượng trên. Quá trình bắt giữ có thu giữ.

Thu giữ của Đinh Thị S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia - Xdua Sim có số sim 0169.6403...., 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone – X10 có số sim 01232.652.....

Thu giữ của Đinh Việt H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, bên trong lắp sim 0972.028.....

Thu giữ của Đỗ Trọng S số tiền 510.000đ VNĐ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, bên trong lắp sim 0915.843...., 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Trọng S.

Thu giữ của Lữ Anh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, bên trong lắp sim số 0932.242.....

Khám xét khẩn cấp nơi phòng nghỉ tập thể của Đỗ Trọng S tại Trạm khí tượng Nông nghiệp huyện M là nơi Đinh Thị S và Đinh Việt H bán ma túy cho S và T, Cơ quan điều tra thu giữ gồm: 01 lọ nhựa mầu trắng hai ống hút mầu vàng và mầu tím nhạt, 01 bình ga du lịch, 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Ciriz BKS 26H7- ..... Khám xét nơi ở đồ vật của nhà Đỗ Trọng S không thu giữ được gì liên quan đến ma túy.

Quá trình điều tra các đối tượng khai nhận như sau.

Về nguồn gốc ma túy tổng hợp (dạng ma túy đá) có để bán là của Lữ Anh T mua được với một người phụ nữ có tên là K, T quen biết gặp gỡ ở khách sạn H với giá 3.000.000đ, sau khi mua được ma túy, T mang về nhà Đỗ Trọng S cùng nhau sử dụng, số còn lại T cất giấu dưới hộp xốp dưới kệ ti vi trong phòng khách nhà S mục đích là để sử dụng và bán.

Khoảng 17h ngày 02/11/2017, Đinh Thị S (Tức L) đến phòng nghỉ tập thể Trạm khí tượng hỏi mua ma túy với Đỗ Trọng S (Đinh Thị S đi mua cho Trần Văn S). Đỗ Trọng S bảo có ma túy bán đồng thời Đỗ Trọng S dùng điện thoại có số 0915.843.... gọi cho T có số 0932.242.... hỏi mua ma túy với T, T nói chỗ cất giấu ma túy ở nhà Đỗ Trọng S và thống nhất giá là 2.500.000đ. Hỏi mua được ma túy với T, Đỗ Trọng S đã đi xe máy của S có BKS 26H7 – .... về nhà ở tiểu khu A, thị trấn N, huyện M để lấy ma túy đem đến bán cho Đinh Thị S. Đối với Đinh Thị S sau khi hỏi mua được ma túy với Đỗ Trọng S đã gọi điện thoại cho S đến Trạm khí tượng thị trấn Nông trường để lấy ma túy.

Sau khi S và T đến phòng nghỉ tập thể của Đỗ Trọng S, Đinh Thị S hỏi S, anh lấy bao nhiêu thì bỏ đạn ra, S nói bán thế nào anh chưa va vấp cái này bao giờ, H nói ở trên này chắc khoảng 500.000đ, S đã đưa cho Đinh Thị S 510.000đ, trả công cho Đinh Thị S 10.000đ, Sau đó Hưng gọi điện cho Đỗ Trọng S nói có S và T đến mua ma túy, S đã lấy 1/5 trong tổng số ma túy mà T cất giấu ở kệ túy vi mang đến Trạm khí tượng đưa cho H bán cho Đinh Thị S.

Sau khi có ma túy H hỏi S có lấy một ít sử dụng không, S nhất trí H đã lấy công cụ cho S sử dụng ma túy ngay tại phòng tập thể của S.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 21/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố các bị can Lữ Anh T, Đỗ Trọng S, Đinh Thị S (Tức Đinh Ngọc L) về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Bị can Đinh Việt H bị truy tố về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã phát biểu ý kiến, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lữ Anh T, Đỗ Trọng S, Đinh Thị S (Tức Đinh Ngọc L), Đinh Việt H phạm tội: Mua bán trái phép chất ma Túy, áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Lữ Anh T từ 30 đến 36 tháng tù.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58: BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đỗ Trọng S từ 24 đến 30 tháng tù.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đinh Thị S từ 24 đến 30 tháng tù.

4. Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đinh Việt H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với các bị cáo.

5. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước của Đinh Thị S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia – Xdua Sim, của Đinh Việt H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, của Đỗ Trọng S là 510.000đ VNĐ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, và 01 chiếc xe máy máy nhãn hiệu Ciriz BKS 26H7- ...., của bị cáo Lữ Anh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 Tuyên trả cho bị cáo Đỗ Trọng S 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Trọng S.

Tịch thu tiêu hủy của bị cáo Đỗ Trọng S 01 sim điện thoại có số thuê bao 0915.843...., của bị cáo Lữ Anh T 01 sim điện thoại có thuê bao 0932.242...., của bị cáo Đinh Thị S 01 sim điện thoại có số thuê bao 0169.6403...., của Đinh Việt H 01 sim điện thoại có số thuê bao 0972.028...., 01bật lửa ga mầu trắng, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 mảnh ni lon mầu trắng có quấn băng dính mầu đen, 01 lọ nhựa mầu trắng có 02 ống hút mầu vàng và tím nhạt, 01 bình ga du lịch Max Vina, mầu đỏ trắng, 03 phong bì bên trong mỗi phong bì đựng que Test thử nhanh. 01 phong bì niêm phong vỏ gói niêm phong ban đầu, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Tạm giữ của Đinh Thị S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone – X10 có số sim thuê bao 01232.652.....

3. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo nhất trí nội dung cáo trạng đã truy tố cũng như nội dung bản luận tội, các bị cáo không có tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện ngày 02/11/2017 các bị cáo đã có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy tổng hợp dạng đá cho Trần Văn S với giá 510.000đ để Trần Văn S và Bùi Văn T sử dụng.

Tại phiên toà các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, các bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22 giờ 45 phút ngày 02/11/2007 với Trần Văn S và Bùi Văn T; vật chứng đã thu giữ; lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 02/11/2017 các bị cáo Lữ Văn T, Đỗ Trọng S, Đinh Thị S (Tức Đinh Ngọc L), Đinh Việt H đã có hành bán trái phép 01 gói ma túy tổng hợp dạng đá cho Trần Văn S với giá 510.000đ.

Hành vi trên của các bị cáo T, Đỗ Trọng S, Đinh Thị S đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma tuý tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Đối với bị cáo Đinh Việt H, bị cáo có 3 tiền án.

Ngày 29/4/2010 bị TAND thành phố S xử phạt 09 tháng tù giam về tội Không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính, đã được xóa án tích.

Ngày 22/6/2011 bị cáo bị TAND thành phố S xử phạt 30 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phần bồi thường dân sự cho bị hại bị cáo chưa thi hành, do vậy bản án này chưa được xóa án tích.

Ngày 10/9/2014 bị cáo bị TAND thành phố S xử phạt 30 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích, như vậy xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 BLHS có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc, cần cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Phân hóa vai trò phạm tội của các bị cáo trong vụ án thấy rằng bị cáo Lữ Anh T là người mua ma túy về để bán kiếm lời, nên giữ vai trò chính. Các bị cáo còn lại là đồng phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Gia đình bị cáo Đỗ Trọng S là người có công với với cách mạng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS.

Quá trình điều tra bị cáo Đỗ Trọng S đã khai ra hành vi phạm tội của bị cáo T, bị cáo Đinh Thị S và bị cáo Đinh Việt H. Bị cáo Đinh Thị S đã khai báo ra hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Trọng S và bị cáo Đinh Việt H, bị cáo Đinh Việt H đã khai ra hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Trọng S và Đinh Thị S để từ đó giúp cho Cơ quan điều tra giải quyết được triệt để vụ án, do vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS đó là người phạm tội đã tích cực giúp đỡ các Cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm.

[3] Về hình phạt bổ sung (Phạt tiền): Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy gia đình các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, các bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp. Đối với bị cáo Đỗ Trọng S quá trình điều tra có 01 căn nhà, do thế chấp với Ngân hàng không có khả năng thanh toán, đến thời điểm xét xử đã bị Ngân hàng phát mại, hiện không còn tài sản gì.

[4] Đối với người phụ nữ tên K đã bán ma túy cho bị cáo T như bị cáo khai, do bị cáo không biết, lai lịch địa chỉ người này nên không căn cứ để điều tra xử lý.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với số điện thoại thu giữ của các bị cáo, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay đã có đủ căn cứ xác định các bị cáo đã dùng làm phương tiện giao dịch mua bán trái phép chất ma túy cụ thể như sau.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước của Đinh Thị S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia – Xdua Sim.

Thu giữ của Đinh Việt H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, bên trong lắp sim 0972.028.....

Thu giữ của Đỗ Trọng S số tiền 510.000đ VNĐ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, bên trong lắp sim 0915.843...., 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Trọng S.

Thu giữ của Lữ Anh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, bên trong lắp sim số 0932.242..... Do đó cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 510.000đ thu giữ của Đỗ Trọng S, là tiền do bị cáo bán ma túy mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 chiếc xe máy máy nhãn hiệu Ciriz BKS 26H7- .... là tài sản hợp pháp của bị cáo Đỗ Trọng S, bị cáo đã dùng làm phương tiện phạm tội, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy của bị cáo Đỗ Trọng S 01 sim điện thoại có thuê bao 0915.843...., của bị cáo Lữ Anh T 01 sim điện thoại có số thuê bao 0932.242...., của bị cáo Đinh Thị S 01 sim điện thoại có thuê bao 0169.6403...., của Đinh Việt H 01 sim điện thoại có số thuê bao 0972.028...., 01 bật lửa ga mầu trắng, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 Ti ni lon mầu trắng có quấn băng dính mầu đen, 01 lọ nhựa mầu trắng có 02 ống hút mầu vàng và tím nhạt, 01 bình ga du lịch Max Vina, mầu đỏ trắng, 03 phong bì bên trong mỗi phong bì đựng que Test thử nhanh của Bùi Văn T, Hoàng Văn Q, Trần Văn S. 01phong bì niêm phong vỏ gói niêm phong ban đầu, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Tạm giữ của bị cáo Đinh Thị S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone – X10 trong điện thoại có sim số thuê bao 01232.652.... để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí hình sự.

Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Trọng S là giấy tờ hợp pháp của các bị cáo, cần tuyên trả cho bị cáo Đỗ Trọng S.

Tại phiên Tòa bị cáo T có khai, quá trình bắt giữ, bị cáo có bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu thu giữ 01 giấy phép lái xe máy. Sau khi kiểm tra Điều tra viên đã chuyển 01 giấy phép lái xe máy thu giữ của bị cáo đến phiên Tòa, xét thấy giấy phép lái xe máy là giấy tờ hợp pháp của bị cáo Lữ Anh T, cần chuyển giao cho Chi cục thi hành án Dân sự huyện Mộc Châu để trả cho bị cáo Lữ Anh T.

Căn cứ điểm c mục 2 Điều 2 Nghị quyết 14/QH 14 ngày 20/6/2017.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lữ Anh T, Đỗ Trọng S, Đinh Thị S (Tức Đinh Ngọc L); Đinh Việt H phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý.

1. Áp dụng điểm c mục 2 Điều 2 Nghị quyết 41/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 BLHS. Xử phạt bị cáo Lữ Anh T 36 (Ba sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2017.

2. Áp dụng điểm c mục 2 Điều 2 Nghị quyết 14/QH 14 ngày 20/6/2017; khoản 1 Điều 251, điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 BLHS năm 2015.

Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Trọng S 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2017.

3. Áp dụng điểm c mục 2 Điều 2 Nghị quyết 14/QH 14 ngày 20/6/2017; khoản 1 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đinh Thị S 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2017.

4. Áp dụng điểm c mục 2 Điều 2 Nghị quyết 14/QH 14 ngày 20/6/2017; điểm q khoản 2 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đinh Việt H 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với các bị cáo.

5. Áp dụng Điều 46,47 BLHS năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Về vật chứng của vụ án.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước của Đinh Thị S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia – Xdua Sim, của Đinh Việt H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, của Đỗ Trọng S số tiền là 510.000đ VNĐ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, và 01 chiếc xe máy máy nhãn hiệu Ciriz BKS 26H7- ....; sm 2006941, sk 006941 mặt đèn pha đã bị bung, rè chắn bùn trước bị vỡ, cốp bên phải bị bung, hộp xích dưới không có, cánh yếm xe không có, xe có 01 gương chiếu hậu bé, dây công tơ mét đã bị đứt, xe đã qua sử dụng cũ, của bị cáo Lữ Anh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nkia 105 Tuyên trả cho bị cáo Đỗ Trọng S 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Trọng S, tuyên trả cho bị cáo Lữ Anh T 01 giấy phép lái xe máy mang tên Lữ Anh T.

Tạm giữ của Đinh Thị S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone – X10 có số sim thuê bao 01232.652.....

Tịch thu tiêu hủy của bị cáo Đỗ Trọng S 01 sim điện thoại có số thuê bao 0915.843...., của bị cáo Lữ Anh T 01 sim điện thoại có thuê bao 0932.242...., của bị cáo Đinh Thị S 01 sim điện thoại có số thuê bao 0169.6403...., của Đinh Việt H 01 sim điện thoại có số thuê bao 0972.028...., 01bật lửa ga mầu trắng, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 Ti ni lon mầu trắng có quấn băng dính mầu đen, 01 lọ nhựa mầu trắng có 02 ống hút mầu vàng và tím nhạt, 01 bình ga du lịch Max Vina, mầu đỏ trắng, 03 phong bì bên trong mỗi phong bì đựng que Test thử nhanh. 01 phong bì niêm phong vỏ gói niêm phong ban đầu, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

6. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị cáo phải chịu mỗi bị cáo là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HS-ST ngày 03/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:47/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về