Bản án 469/2019/HS-PT ngày 21/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 469/2019/HS-PT NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 21/10//2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 389/2019/HSPT ngày 16/9/2019 đối với bị cáo Nguyễn Hoàng H, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4568/2019/QĐXXPT-HS ngày 04/10/2019, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 125/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 của Tòa án nhân dân Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hoàng H; sinh năm 1988 tại tỉnh Đắk Lắk; giới tính: nam; nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố 7, thị trấn A, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: (không); trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: (không); con ông Nguyễn Xuân C và bà Phan Thị C; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: (không);

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo:

Bị hại: Công ty D; địa chỉ trụ sở: phường E, G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đi diện hợp pháp của bị hại: Ông Võ Văn I; sinh năm 1979;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào cuối tháng 4/2017, khi bị cáo Nguyễn Hoàng H đang ngồi uống cà phê ở quán cà phê trên địa bàn thành phố K, tỉnh Đắk Lắk thì gặp một người đàn ông tên L (không rõ lai lịch). L nhờ H dùng giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe của người thân mang tên Nguyễn Văn Hoàng để ký hợp đồng vay tiền của Công ty D để mua điện thoại di động theo hình thức trả góp. L và H thỏa thuận rằng nếu hợp đồng trên 6.000.000đ thì L trả cho H 500.000đ tiền công, còn hợp đồng dưới 6.000.000đ thì L trả cho H 300.000đ; H đồng ý. Sau đó, L lấy điện thoại chụp hình của H. Đến khoảng 15 giờ ngày 05/5/2015, L điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở H đi từ Đắk Lắk đến Thành phố Hồ Chí Minh để mua điện thoại di động theo hình thức trả góp. Trên đường đi, L nói với H là đến Thành phố Hồ Chí Minh sẽ làm hợp đồng dễ hơn ở Đắk Lắk và chỉ cho H cách thức qua mặt nhân viên Công ty D. Đến khoảng 18 giờ ngày 06/5/2017, khi cả đến trước nhà số 72/1 đường Tô Ngọc Vân, Khu phố 1, phường M, Quận O, L dừng xe lại và đưa cho H: 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn Hoàng nhưng dán ảnh của H; 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn Hoàng; 1.800.000đ. Sau đó, H đi vào bên trong Cửa hàng Thế Giới Di Động, địa chỉ số 787 Quốc lộ 1A, phường M, Quận O gặp anh Nguyễn Thanh Nam (nhân viên của Công ty D Việt Nam) thỏa thuận ký hợp đồng vay vốn số 3718922889, vay tiền của Công ty D Việt Nam để mua chiếc điện thoại di động Samsung J7 Prime với giá 5.990.000đ. H trả 1.797.000đ tiền mua điện thoại và vay của Công ty D Việt Nam vay 4.193.000đ. Theo thỏa thuận, mỗi tháng, H phải trả cho Công D Việt Nam 1.081.000đ, trả trong thời hạn 4 tháng kể từ ngày 06/5/2017 đến 06/9/2017. Sau khi nhận điện thoại, H đưa cho L chiếc điện thoại cùng Giấy chứng minh nhân dân và Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn Hoàng; L đưa cho H 300.000đ. Đến hạn thanh toán, H không thanh toán nên Công ty D Việt Nam yêu cầu H phải thanh toán. Ngày 14/8/2017 và ngày 23/11/2017, H trả cho Công ty D Việt Nam 1.000.000đ. H xin được thanh toán số tiền 3.193.000đ còn lại theo cách thức trả góp, mỗi tháng 500.000đ; Công ty D Việt Nam không đồng ý nên làm đơn tố cáo H gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận O, yêu cầu xử lý hình sự đối với H. Sau khi bị khởi tố, H đã trả cho Công ty D Việt Nam 3.193.000đ.

Tại Cáo trạng số 105/CTr-VKS ngày 29/5/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Quận O đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự năm 2015).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HS-ST ngày 29/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng H 01 (một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án;

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và bị hại.

Ngày 29/7/2019, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo có đơn bổ sung nội dung kháng cáo, xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giữ nguyên nội dung đã kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Mức án mà Tòa án nhân dân Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng bị cáo không có nơi cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2].Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của bị hại, căn cứ vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác, có căn cứ để xác định rằng: Vào ngày 06/9/2017, bị cáo đã có hành vi gian dối, mạo danh người khác để ký hợp đồng vay của Công ty D Việt Nam 4.193.000đ nhằm mục đích chiếm đoạt. Đến hạn thanh toán theo hợp đồng, bị cáo không trả. Khi Công ty D Việt Nam đòi thì bị cáo chỉ trả được cho Công ty D Việt Nam 1.000.000đ. Sau khi bị khởi tố, bị cáo mới hoàn trả cho Công ty D Việt Nam 4.193.000đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng do động cơ tư lợi nên vẫn cố ý vi phạm. Đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo theo tội danh, điều luật như đã nêu là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3].Về việc bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt có giá trị nhỏ, trong quá trình điều tra, bị cáo đã khắc phục toàn bộ thiệt hại do tội phạm gây ra; cha đẻ của bị cáo là ông Nguyễn Xuân Hòa được Nhà nước tặng Huân hương kháng chiến hạng Nhất. Do vậy, Tòa án sơ thẩm áp dụng điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm trách nhiệm hình sự; có nơi cư trú rõ ràng; có khả năng tự cải tạo; việc buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù là không thật sự cần thiết.

Với chất, mức độ vi phạm, các tình tiết giảm nhẹ như đã nêu, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 1 năm tù là tương xứng. Tuy nhiên, việc không cho bị cáo được hưởng án treo là quá nghiêm khắc. Do vậy, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo về nội dung xin được hưởng án treo.

Việc đại diện Viện kiểm sát cho rằng bị cáo không có nơi cư trú ổn định tại Thành phố Hồ Chí Minh để đề nghị không cho bị cáo hưởng án treo là không phù hợp với quy định của pháp luật.

[4].Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, 1.Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HS-ST ngày 29/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ khoản 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017,

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng H 1 (một) năm tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 2 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện B, tỉnh Đắk Lắk để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Tòa án có thẩm quyền có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này; trường hợp bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới thì buộc bị cáo phải chấp hành phạt của bản án này và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 469/2019/HS-PT ngày 21/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:469/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về