Bản án 468/2019/HS-PT ngày 21/10/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 468/2019/HS-PT NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 21/10/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 369/2019/HSPT ngày 05/9/2019 đối với bị cáo Đặng Minh H, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4710/2019/QĐXXPT-HS ngày 04/10/2019, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 198/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Đặng Minh H; tên gọi khác: Dũng, Bình; sinh năm 1975 tại tỉnh Hải Dương; nơi đăng ký thường trú: xã B, huyện C, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: (không); quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Xuân P (chết) và bà Phạm Thị M;

Tiền án:

Ngày 09/12/1993, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Hiếp dâm” (bản án số 1029/HSST), bị cáo kháng cáo; ngày 26/3/1994, Tòa án nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên án sơ thẩm (bản án số 279/HSPT ngày 26/3/1994);

Ngày 24/02/1997, bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 năm tù về tội “Cướp tài sản công dân”, bị cáo kháng cáo; sau đó, bị cáo rút nên Tòa án cấp phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao Đình chỉ xét xử (Quyết định số 197/HSPT ngày 12/6/1997);

Ngày 26/5/1997, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 20 năm tù về tội “Giết người”, bị cáo kháng cáo; Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao sửa án sơ thẩm, xử phạt bị cáo 18 năm tù về tội “Giết người” (bản án số 1472/HSPT ngày 19/8/1997); chấp hành xong hình phạt tù 02/02/2016 (bl.94).

Tiền sự: không.

Bắt, tạm giam: 10/11/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 09/11/2018, Đặng Minh H đi làm về và ghé vào quán cà phê võng 79, Đường D, Khu phố 5, phường G, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh thì gặp ông Nguyễn Thanh Dũng đang ngồi uống rượu một mình. Khi thấy H, ông R qua mời H vào nhậu chung. Ông R và H nhậu đến khoảng 13 giờ 45 phút cùng ngày, H nói không nhậu nữa thì ông R nói “Mày không nhậu thì phải đưa 1.500.000đ để trả tiền nhậu cho chủ quán”, H trả lời “Tôi làm gì có nhiều tiền vậy”. Lúc này, ông R cầm con Thái Lan gí vào mặt H (bl.137). Thấy vậy, H đi đến quầy đưa tiền cho chủ quán là anh P nhưng anh P không nhận vì không biết là tiền gì. H không nói gì và đi lại chỗ tủ đựng đồ của quán lấy 2 chiếc búa, mỗi tay cầm 1 chiếc và đi đến vị trí ông R đang ngồi. Thấy vậy, ông R đứng dậy. Tay trái H cầm chiếc búa (cán gỗ, hai đầu búa bằng sắt hình vuông) đánh vào người ông R theo hướng từ trên xuống nhưng không trúng; tay phải H cầm chiếc búa (loại búa rìu có lưỡi, cán bằng gỗ) tiếp tục đánh ngang người ông R theo hướng từ phải qua trái nhưng cũng không trúng ông R mà trúng cột sắt, làm gãy cán búa. H tiếp tục dùng tay trái cầm búa đánh trúng vào sườn trái ông R làm cho ông R bị ngã. H tiếp tục dùng chân đạp vào lưng, sườn trái và mặt của ông R. Lúc này, bảo vệ của Chợ đầu mối nông sản thực phẩm Thủ Đức đưa H đến Công an phường G, quận T để xử lý.

Tại cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T và tại phiên tòa, H khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 947/TgT.18 ngày 15/11/2018 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về thương tích của ông Nguyễn Thanh Dũng như sau:

-Chấn thương vùng đầu mặt gây:

+Sưng bầm sây sát da vùng quanh hốc mắt trái, có tỷ lệ 02%; thương tích do vật tày, vật tày có cạnh tác động;

+Gãy cung gò má trái, có tỷ lệ 08%; thương tích do vật tày tác động mạnh gây ra.

-Chấn thương vùng ngực gây sây sát da, bầm tụ máu rải rác tại vùng lưng, gãy ba xương sườn ngực trái, dập phổi trái, tràn khí tràn máu màng phổi trái, đã được điều trị dẫn lưu màng phổi trái, hiện còn:

+Sây sát da kích thước 5x3cm sau vai trái, có tỉ lệ 02%; thương tích do vật tày nhám tác động hoặc do phần cơ thể tác động vào vật tày nhám gây ra;

+Bầm tụ và vết sây sát da vùng lưng;

+Hình ảnh trên phim chụp cắt lớp vi tính lồng ngực:

o Gãy xương sườn;

o Dập phổi, tràn máu, tràn khí màng phổi trái;

+Đang đặt dẫn lưu màng phổi, có tỉ lệ 23%; thương tích do vật tày tác động mạnh gây ra.

-Cộng lùi các tỉ lệ trên sẽ ra tỉ lệ 31,96% làm tròn số sẽ là 32%; tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 32%.

Vật chứng thu giữ được trong vụ vụ án: 01 chiếc búa cán gỗ, dài khoảng 30cm, 02 đầu búa hình vuông dài 07cm; 01 chiếc búa bằng kim loại đầu búa dẹp dài khoảng 15cm, cán gỗ bị gãy dài khoảng 20cm; 01 dao dài 20cm, cán nhựa, lưỡi thép dài 10cm.

Về phần dân sự: Ông Nguyễn Thanh Dũng không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 184/CT-VKSTĐ ngày 19/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận T đã truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự năm 2015).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 198/2019/HS-ST ngày 24/7/2019 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đặng Minh H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Đặng Minh H 5 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2018.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo của bị cáo và bị hại.

Ngày 02/8/2019, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Tòa án nhân dân quận T xét xử không đúng; yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và trình bày bổ sung như sau:

-Cáo trạng và bản án sơ thẩm nêu không đúng diễn biến vụ án, bỏ qua nhiều tình tiết liên quan. Cụ thể: Ông R đã có hành vi gí dao vào mặt bị cáo, hăm dọa bị cáo, buộc bị cáo phải đưa 1.500.000đ trong khi tiền nhậu chỉ khoảng 35.000đ, không phải là 1.500.000đ như bản án sơ thẩm đã nêu. Hành vi của ông R phạm vào tội cướp tài sản nhưng cơ quan điều tra đã không xem xét xử lý kịp thời, để cho ông R bỏ trốn. Bị cáo đánh ông R là để bảo vệ tài sản của mình. Bị cáo yêu cầu được đối chất với ông R và được thực nghiệm hiện trường.

-Đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra lại đúng quy định của pháp luật, đảm bảo sự công bằng cho bị cáo.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Mức án mà Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Kháng cáo và yêu cầu của bị cáo là không có căn cứ. Đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của bị hại, căn cứ vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác, có căn cứ để xác định rằng: Vào khoảng 13 giờ 45 phút ngày 09/11/2018, ở tại quán cà phê võng 79, Đường D, Khu phố 5, phường G, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo đã có hành vi dùng búa và búa rìu (là hung khí nguy hiểm) đánh ông Nguyễn Thanh Dũng, gây thương tích cho ông R với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 32%. Nguyên nhân dẫn đến sự việc là do ông R mời bị cáo nhậu nhưng khi bị cáo không nhậu nữa thì ông R lại gí dao vào mặt bị cáo, yêu cầu bị cáo phải đưa 1.500.000đ cho chủ quán cà phê.

[2].Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác và xâm phạm trật tự an toàn công cộng. Bị cáo là có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là sai trái, bị luật pháp nghiêm cấm nhưng do bản tính hung hăng, xem thường tính mạng, sức khỏe người khác nên bị cáo vẫn cố ý vi phạm.

[3].Căn cứ vào các nhận định đã nêu, đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo theo tội danh, điều luật như đã nêu là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4].Trong vụ án này, nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội xuất phát từ hành vi trái pháp luật của ông Nguyễn Thanh Dũng, đó là: Ông R mời bị cáo nhậu (chỉ có 1 bình rượu và 1 trứng ốp la), nhưng khi bị cáo không nhậu nữa thì ông R buộc bị cáo phải đưa 1.500.000đ cho chủ quán và có hành vi gí dao vào mặt bị cáo để hăm dọa. Việc này được chứng minh qua lời khai của ông R trong bản tự khai ngày 19/11/2018(bl.137). Lời khai này của ông R là phù hợp với lời khai của bị cáo. Người làm chứng là anh K cũng khai rằng khi bị cáo đến đưa cho anh Tuấn mấy tờ giấy bạc mệnh giá 200.000đ nhưng vì không biết là tiền gì nên anh Tuấn không nhận. Sau đó, ông R thay đổi lời khai cho rằng ông R chỉ đùa giỡn với bị cáo. Việc ông R khai lại như đã nêu là mâu thuẫn với lời khai của bị cáo nên không có căn cứ để tin cậy; mặt khác, trước đó, bị cáo và ông R không quen biết với nhau nên việc ông R cho rằng mình chỉ đùa giỡn là không có tính thuyết phục. Hành vi của ông R có dấu hiệu của tội “Cướp tài sản”. Do vậy, cần kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[5].Về kháng cáo của bị cáo:

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội có lỗi của bị hại (như đã được nhận định ở phần trên). Do vậy, Tòa án sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo là người có nhân thân không tốt, đã có 3 án tích về các tội “Hiếp dâm”, “Cướp tài sản” và “Giết người” nhưng chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “tái phạm nguy hiểm”. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 để tăng nặng trách nhiệm hình sự là đúng pháp luật.

Trong quá trình điều tra, lời khai của bị cáo và bị hại về việc bị cáo gây thương tích cho bị hại là phù hợp với nhau. Do vậy, theo quy định của pháp luật, không bắt buộc phải cho bị cáo và bị hại đối chất. Theo xác minh của Cơ quan điều tra, thì ông R không có nơi cư trú ổn định, hiện ở đâu không rõ (bl.173). Do vậy, việc bị cáo yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thực hiện việc đối chất giữa bị cáo với ông R và thực nghiệm hiện trường là không có căn cứ. Hơn nữa, theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì mặc dù ông R có hành vi cầm dao đe dọa bị cáo, buộc bị cáo phải đưa 1.500.000đ cho chủ quán là anh Tuấn nhưng khi bị cáo đưa tiền cho anh Tuấn, anh Tuấn không nhận thì ông R không có hành vi nào khác mang tính đe dọa và tấn công bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo đã chủ động đi đến chỗ ông R ngồi và dùng búa tấn công ông R. Do vậy, nếu đủ căn cứ xử lý ông R về tội “Cướp tài sản” (thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt) thì cũng không phải là căn cứ để loại trừ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 5 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng (trong đó, có xem xét tình tiết bị hại có lỗi). Mức án 5 năm tù cũng là mức án thấp nhất quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình hình sự năm 2015.

Với các lý do đã nêu, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[6].Kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

1.Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 198/2019/HS-ST ngày 24/7/2019 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Đặng Minh H 5 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2018.

2.Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3.Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T tiếp tục điều tra làm rõ hành vi của ông Nguyễn Thanh Dũng để xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

4.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 468/2019/HS-PT ngày 21/10/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:468/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về