Bản án 467/2020/HNGĐ-ST ngày 15/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 467/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Trong ngày 15 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 265/2019/TLST-HNGĐ, ngày 10 tháng 5 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 894/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 2820/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kim C, sinh năm 1981 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố W, phường T, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Fang Jung F, sinh năm 1975 (vắng mặt). Quốc tịch: Trung Quốc (Đài Loan) Địa chỉ: đường R, Khóm P, phường HN, thị trấn ĐC, huyện BĐ, Đài Loan. Bà Lê Thị Kim C đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/4/2019 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Lê Thị Kim C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Fang Jung F kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 743, Quyển số 03 ngày 27/02/2009. Sau khi kết hôn, bà và ông Fang Jung F chung sống với nhau tại Đài Loan. Đến năm 2010, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn và bất đồng về quan điểm sống nên bà trở về Việt Nam và cắt đứt mọi liên hệ với ông Fang Jung F. Bà xác nhận hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Fang Jung F.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có.

Vì bận việc, bà đề nghị được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Bị đơn là ông Fang Jung F, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ: Tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày, giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ Đài Loan theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu ông Fang Jung F có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc bà C khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo văn bản ủy thác tư pháp số 350/TTTPDS-TA30 ngày 14/6/2019). Tuy nhiên, Cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ Đài Loan đã không thực hiện được ủy thác tư pháp nêu trên do địa chỉ không chính xác. Ngày 14/11/2019, Tòa án có Công văn số 836/TAND-CV đề nghị Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc, Đài Loan thực hiện thông báo trên cổng thông tin điện tử của Văn phòng. Đồng thời, ngày 15/11/2019 Tòa án cũng có văn bản đề nghị thông báo việc ly hôn của bà C và ông Fang Jung F trên kênh dành cho người nước ngoài của Đài phát thanh Trung ương theo quy định để thông báo ngày, giờ, địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa đối với ông Fang Jung F. Theo đó, Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc đã niêm yết công khai tại Văn phòng; đăng thông báo trên cổng thông tin điện tử và Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh đã phát thông báo trong các ngày 16, 17, 18/12/2019. Hết thời hạn 01 tháng kể từ ngày thông báo, ông Fang Jung F vẫn không liên hệ với Tòa án để giải quyết vụ án ly hôn theo đơn khởi kiện của bà C.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án: Về tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về nội dung, Kiểm sát viên phân tích yêu cầu của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn là phù hợp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn Lê Thị Kim C, Hội đồng xét xử nhận thấy bà C và ông Fang Jung F kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn là ông Fang Jung F hiện cư trú tại Đài Loan nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu cung cấp bản khai; thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến thời điểm xét xử Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bị đơn. Vì vậy căn cứ quy định tại Điều 227; Điều 228; khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của bà Lê Thị Kim C được ly hôn ông Fang Jung F, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà C (bà C cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời khai của bà) thì thực tế sau khi kết hôn bà C và ông Fang Jung F chung sống không hạnh phúc. Từ khi kết hôn cho đến nay, bà C và ông Fang Jung F không có quá trình chung sống lâu dài, do xa cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay bà C và ông Fang Jung F đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy bà C yêu cầu ly hôn với ông Fang Jung F là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà C khai không có, Tòa án không xem xét.

[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà Lê Thị Kim C được ly hôn với ông Fang Jung F là phù hợp với thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Lê Thị Kim C chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 5 Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Kim C.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Kim C được ly hôn với ông Fang Jung F.

Giấy chứng nhận kết hôn số 743, Quyển số 03 ngày 27/02/2009 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Lê Thị Kim C và ông Fang Jung F không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Lê Thị Kim C khai không có, Tòa không xét.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Lê Thị Kim C chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà C đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0013144 ngày 07/5/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà C đã nộp đủ tiền án phí.

3. Bà Lê Thị Kim C được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông Fang Jung F được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 467/2020/HNGĐ-ST ngày 15/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:467/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về