Bản án 467/2018/HNGĐ–ST ngày 16/11/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 467/2018/HNGĐ–ST NGÀY 16/11/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 16 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố B có mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số:1851/2018/TLST-HNGĐ ngày  14 tháng 8 năm 2018 về tranh chấp “Xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 393/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 728/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2018.

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1985.

Địa chỉ: 44D, tổ 2, ấp 2, xã S, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai. Bị đơn: Anh Trần Đăng Ch, sinh năm 1985.

Địa chỉ: 735A, tổ 39, Kp. 8, P. L, Tp B, tỉnh Đồng Nai.

(Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Ch vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện ngày 17/7/2018, các lời khai tại hồ sơ chị Nguyễn Thị L trình bày: 

Chị và anh Trần Đăng Ch kết hôn với nhau năm 2006, hôn nhân tự nguyện có làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân P. L, Thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn. Quá trình chung sống của vợ chồng thời gian đầu bình thường nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống, tính cách vợ chồng không hòa hợp đồng thời do anh Ch không quan tâm đến gia đình thường xuyên bài bạc và có mối quan hệ với người phụ nữ khác. Vì vậy thường xuyên xảy ra tranh cãi, gây gỗ lẫn nhau.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Trần Đăng Ch để trả tự do cho nhau.

-Về con chung: Có 02 con chung là cháu Trần Nguyễn Thụy L, sinh ngày 01/6/2007 và Trần Nguyễn Minh A, sinh ngày 09/11/2008. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì chị xác định là xin nuôi dưỡng cả 02 con chung, chị không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

-Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Bị đơn anh Trần Đăng Ch vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến cũng như cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án là chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Về thủ tục tố tụng:

Chị Nguyễn Thị L và anh Trần Đăng Ch kết hôn trên cơ sở tự nguyện

có đăng ký kết hôn, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Nay có đơn xin ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố B, Tòa án nhân dân

Thành phố B đã thụ lý giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

 Xét anh Trần Đăng Ch là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án nhân dân Thành phố B, tỉnh Đồng Nai tống đạt, niêm yết thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt và không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, do đó Tòa án không thu thập được lời khai của anh Trần Đăng Ch và không tiến hành hòa giải được. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Xét chị Nguyễn Thị L là nguyên đơn trong vụ án có đơn xin vắng mặt xét xử. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

Về Nội dung vụ án:

[1]Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị L và anh Trần Đăng Ch kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Chị L, anh Ch sau khi được một thời gian, thì phaùt sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống.

Qua xác minh, anh Trần Đăng Ch đăng ký thường trú và hiện vẫn đang sinh sống tại địa chỉ 735A, tổ 39, Kp. 8, P. L, Thành phố B, tỉnh Đồng Nai (Bl

16). Tòa án đã không tống đạt trực tiếp được, niêm yết đầy đủ theo quy định các giấy triệu tập làm việc, thông báo hòa giải để tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng anh Ch vắng mặt không có lý do. Điều đó thể hiện anh bỏ mặc và không có thiện chí hàn gắn. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân.Vì vậy có căn cứ chấp nhận đơn xin ly hôn của chị L.

[2]Về con chung: Có 02 con chung là cháu Trần Nguyễn Thụy L, sinh ngày 01/6/2007 và Trần Nguyễn Minh A, sinh ngày 09/11/2008. Chị L xin nuôi dưỡng cả 02 con chung, chị không yêu cầu anh Ch cấp dưỡng nuôi con chung.

Hiện tại hai cháu đang sống với me, anh Ch vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, vì vậy có căn cứ giao con chung cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì không trực tiếp nuôi con nên anh Ch được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở, vì lợi ích của con, khi cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[3]Về tài sản chung và nợ chung: do không thu thập được lời khai của anh Ch nên không có cơ sở để xác định tài sản chung và nợ chung của vợ chồng, và vì chị L không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra để xem xét tại phiên tòa hôm nay. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp và có đơn khởi kiện sẽ được xem xét giải quyết thành vụ kiện dân sự khác.

[4] Về án phí HNGĐ-ST: Chị L phải chịu tiền án phí xin ly hôn là 300.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 203, Điều 220; điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228  Bộ Luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng Luật hôn nhân gia đình năm 2000.

- Áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84, 131 Luật hôn nhân gia đình 2014.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L.

-Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị L và anh Trần Đăng Ch.

-Về con chung:

Giao hai con chung là cháu Trần Nguyễn Thụy L, sinh ngày 01/6/2007 và Trần Nguyễn Minh A, sinh ngày 09/11/2008cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì không trực tiếp nuôi con nên anh Ch được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở, vì lợi ích của con, khi cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: không đặt ra để xem xét.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 467/2018/HNGĐ–ST ngày 16/11/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:467/2018/HNGĐ–ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về