Bản án 466/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy, tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội che giấu tội phạm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 466/2020/HS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY, TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI CHE GIẤU TỘI PHẠM

Ngày 10/12/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 380/2020/TLST-HS ngày 09/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 459/2020/QĐXXST-HS ngày 23/11/2020 đối với các bị cáo:

1. NGUYẾN THỊ H, sinh năm 1971; ĐKNKTT: Số nhà 33, tổ 03, phường LT, quận TB, Thành phố Hà Nội; trú tại: Số nhà 45 ngõ 173 đường T, phường ĐM, quận MH, Thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 05/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn B (Đã chết) và bà Mai Thị M; có chồng là Đinh Văn TH và 02 con, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị bắt và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/05/2020 tại Trại tạm giam số 01 của Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. ĐINH VĂN TH, sinh năm 1964; ĐKNKTT: Số nhà 33, tổ 03, phường LT, quận TB, Thành phố Hà Nội; trú tại: Số nhà 45 ngõ 173 đường T, phường ĐM, quận MH, Thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 05/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; đảng phái, đoàn thể: Nguyên là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 26/8/2020 Đảng ủy Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội đã ra Quyết định số 11/QĐ-ĐUTCT xóa tên trong danh sách đảng viên; con ông Đinh Văn P và bà Trần Thị C (Đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị H; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị bắt và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/05/2020 tại Trại tạm giam số 01 của Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo : Ông Nguyễn Anh Phương, Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH Anh Phương - Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1973; trú tại: Số 10, tổ 12 phường ĐM, quận MH, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 17/5/2020 tại khu vực ngã tư Tam Trinh - Minh Khai, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an Thành phố Hà Nội phát hiện và kiểm tra Nguyễn Thị Thu H điều khiển xe môtô biển kiểm soát 29- D1-555.49 chở Nguyễn Thị H. Quá trình kiểm tra đã thu giữ của Nguyễn Thị H:

01 túi nilon màu đen, bên trong có 02 túi nilon màu trắng chứa các cục chất bột màu trắng; 01 túi nilon màu đen, bên trong có 03 túi nilon màu trắng chứa các cục chất bột màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Thị H 01 túi xách màu đen, bên trong có 03 điện thoại di động hiệu Nokia, sử dụng các số thuê bao 0354568045, 0972856417, 0985321481 và số tiền 1.000.000 đồng; thu giữ của Nguyễn Thị Thu H: 01 điện thoại di động màu trắng hồng hiệu OPPO, 870.000 đồng và 01 xe môtô Honda Wave biển kiểm soát 29-D1-555.49.

Khi lực lượng Công an thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị H tại số 45 ngõ 173 Tam Trinh, phường ĐM, quận MH thì Đinh Văn TH (Chồng Hải) ở nhà. Thành đã vào phòng ngủ tầng 02 lấy số ma túy Hải để trên kệ tivi cho vào bồn cầu xả nước tiêu hủy vật chứng. Ngay sau đó, Cơ quan Công an đã thu giữ được số ma túy này, gồm: 06 túi nilon màu trắng chứa chất bột màu trắng; thu giữ trong ngăn kéo tủ 04 túi nilon chất dẻo màu đen. Ngoài ra còn thu giữ: 01 cân điện tử; 01 điện thoại di động Iphone, sử dụng số thuê bao 0917829986; 01 xe môtô Wave biển kiểm soát 29-D2-217.10; 02 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị H và Đinh Văn TH; số tiền 10.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 3947 ngày 26/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, kết luận: “Tang vật thu giữ quả tang của Nguyễn Thị H: Chất bột màu trắng bên trong 02 túi nilon màu trắng đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 75,076 gam; Chất bột màu trắng bên trong 03 túi nilon màu trắng đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 5,632 gam. Tang vật thu giữ khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị H: Chất bột màu trắng bên trong 06 túi nilon màu trắng đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 79,551 gam; Chất dẻo màu đen bên trong 04 túi nilon đều là Thuốc phiện, tổng khối lượng 6,234 gam; 01 cân điện tử có dính ma túy loại Heroine”.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị H và Đinh Văn TH khai: Khoảng 08 giờ ngày 17/05/2020, Nguyễn Thị H đi ra khu vực cổng Bệnh viện Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội gặp một phụ nữ không quen mua 30.000.000 đồng Heroine sau đó mang về nơi ở dùng cân điện tử chia nhỏ ma túy vào các túi nilon. H để một phần ma túy trên kệ tivi phòng ngủ tầng 02; phần còn lại mang theo người mục đích để bán. Sau đó, H gọi điện nhờ Nguyễn Thị Thu H chở đến nhà người quen, nhưng mục đích là để H đi bán ma túy. Khi Nguyễn Thị Thu H chở H đến khu vực ngã tư Tam Trinh - Minh Khai, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng thì bị kiểm tra bắt giữ. Đinh Văn TH khai chung sống cùng nhà với Nguyễn Thị H nên biết H mua bán trái phép chất ma túy, nhưng không tham gia vào việc mua bán ma túy của H. Khi Công an đến khám xét chỗ ở, TH biết H có cất giấu ma túy trong nhà nên đã lấy mang đi tiêu hủy nhằm che giấu tội phạm cho H. Bốn túi ma túy là nhựa thuốc phiện thu giữ trong ngăn kéo tủ là TH mua của một người đàn ông không quen trên tỉnh Yên Bái, mục đích để đi lễ chùa và chữa bệnh.

Đối với vật chứng thu giữ: Chiếc xe môtô biển kiểm soát 29-D1-555.49 thu giữ của chị Nguyễn Thị Thu H thuộc sở hữu của ông Nguyễn Văn H1 (bố chị H); ông H1 và chị Nguyễn Thị Thu H không biết việc mua bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị H nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông H1. Chiếc xe môtô biển kiểm soát 29-D2-217.10 thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Thị H: Qua xác minh thuộc sở hữu của chị Chử Thúy H2 (con dâu H) nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho chị H2.

Cáo trạng số 377/CT-VKS-P1 ngày 07/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Đinh Văn TH về các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy và Che giấu tội phạm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 và điểm e khoản 1 Điều 389 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận hành vi vi phạm như Cáo trạng đã nêu và đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 4 Điều 251; điểm e khoản 1 Điều 389; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị H 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; xử phạt Đinh Văn TH từ 12 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, từ 12 đến 24 tháng tù về tội “Che giấu tội phạm”, tổng hợp buộc Đinh Văn TH phải chấp hành hình phạt chung là từ 24 đến 48 tháng tù; xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; các bị cáo đã khai báo thành khẩn; ăn năn hối cải; nhân thân tốt; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; có hoàn cảnh kinh tế và gia đình khó khăn; bị cáo Đinh Văn TH đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự và có ông Nội là liệt sĩ. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, từ đó áp dụng khoản 1 Điều 54 để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (Từ 15 đến 17 năm tù); xử phạt bị cáo Đinh Văn TH 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 06 tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Che giấu tội phạm”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đối với các bị cáo, các Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của các bị cáo; lời khai của những người có liên quan, người làm chứng; căn cứ Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; các Biên bản bắt, khám xét; Biên bản kiểm tra điện thoại; Phiếu xét nghiệm ma túy; các tang vật chứng đã thu giữ; các Bản kết luận giám định; và các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy: Khoảng 19 giờ ngày 17/5/2020 tại khu vực ngã tư Tam Trinh - Minh Khai, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Công an Thành phố Hà Nội đã kiểm tra và bắt quả tang Nguyễn Thị H đang mang 80,708 gam Heroine đi bán; khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị H tại số 45 ngõ 173 đường T, phường ĐM, quận MH, thì Đinh Văn TH là chồng H đã mang 79,551 gam Heroine mà H cất giấu trong nhà đi tiêu hủy, nhằm mục đích che giấu hành vi mua bán trái phép chất ma túy của H. Như vậy, tổng khối lượng ma túy Nguyễn Thị H mua bán là 160,259 gam Heroine. Ngoài ra, Đinh Văn TH còn có hành vi tàng trữ trái phép 6,234 gam Nhựa thuốc phiện để sử dụng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết tăng nặng định khung “Heroine có khối lượng từ 100 gam trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của Đinh Văn TH đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “Nhựa thuốc phiện có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 và tội “Che giấu tội phạm” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 389 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đã viện dẫn để truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; vai trò; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng; nhận thức rõ tác hại và hậu quả khôn lường của việc mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng... trái phép các chất ma túy là Nhà nước nghiêm cấm nhưng vì đam mê mù quáng các bị cáo vẫn phạm tội. Khi bị phát hiện Đinh Văn TH còn có hành vi tẩu tán tang vật nhằm che giấu hành vi phạm tội của Nguyễn Thị H. Hành vi đó chẳng những gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội nghiêm trọng; xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp; xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước; hành vi đó còn là nguyên nhân gây lan truyền tệ nghiện ngập ma tuý, bệnh xã hội nguy hiểm; làm suy thoái về kinh tế, hủy hoại hạnh phúc gia đình và làm phát sinh các tội phạm khác. Trong vụ án này, Nguyễn Thị H giữ vai trò chính và phải chịu trách nhiệm hình sự về việc mua bán trái phép 160,259 gam Heroine; Đinh Văn TH chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép 6,234 gam Nhựa thuốc phiện và che giấu hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng của Nguyễn Thị H. Về nhân thân, các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội, đã thành khẩn khai báo; ăn năn hói cải; bị cáo Thành đã từng hoàn thành nghĩa vụ quân sự, có ông Nội là liệt sĩ nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 điều 51 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Với khối lượng chất ma túy nêu trên, căn cứ các quy định của pháp luật, đối chiếu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vai trò, nhân thân của từng bị cáo thì cần thiết phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của từng bị cáo, nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ma túy đang ngày càng gia tăng, nhức nhối trên địa bàn Thủ đô và cả nước. Bị cáo Đinh Văn TH phạm nhiều tội nên cần tổng hợp, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật Hình sự.

Ngoài hình phạt chính, cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung, phạt mỗi bị cáo một khoản tiền nhất định để sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 35 và khoản 5 của các Điều 249 và 251 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy và đồ vật liên quan và 01 túi đeo chéo màu đen. Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại Iphone thu giữ của Nguyễn Thị H. Trả lại bị cáo Đinh Văn TH 01 Căn cước công dân và 03 chiếc điện thoại Nokia; trả bị cáo Nguyễn Thị H 01 Chứng minh nhân dân. Đối với chiếc điện thoại Oppo và 870.000 đồng đã thu giữ của chị Nguyễn Thị Thu H không liên quan đến tội phạm nên trả lại chị Hương. Tạm giữ số tiền 11.000.000 đồng đã thu giữ của các bị cáo để bảo đảm thi hành các khoản tiền.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Đinh Văn TH phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Che giấu tội phạm”.

2. Về điều khoản áp dụng và hình phạt:

2.1) Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; khoản 5 Điều 251; Điều 35; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị H 20 (Hai mươi) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/5/2020.

Phạt bổ sung Nguyễn Thị H 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.

2.2) Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; khoản 5 Điều 249; điểm e khoản 1 Điều 389; Điều 35; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đinh Văn TH 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Che giấu tội phạm”; tổng hợp, buộc Đinh Văn TH phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/5/2020.

Phạt bổ sung Đinh Văn TH 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1) Tịch thu, tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy và đồ vật liên quan (Được niêm phong trong 01 hộp có chữ ký của Giám định viên Trương Trọng Việt, đương sự Nguyễn Thị H và Điều tra viên Bùi Đức Hạnh; 02 phong bì niêm phong có chữ ký của Giám định viên Trương Trọng Việt, Điều tra viên Bùi Đức Hạnh, đương sự Nguyễn Thị H và Đinh Văn TH); 01 túi đeo chéo màu đen đã qua sử dụng;

3.2) Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại ghi chữ Iphone màu trắng, đã qua sử dụng;

3.3) Trả lại bị cáo Đinh Văn TH 01 Căn cước công dân số 001064014369 mang tên Đinh Văn TH và 03 chiếc điện thoại ghi di động chữ Nokia màu đen, đều đã qua sử dụng. Trả lại bị cáo Nguyễn Thị H 01 Chứng minh nhân dân số 001171002491 mang tên Nguyễn Thị H. Trả lại chị Nguyễn Thị Thu H 01 chiếc điện thoại Oppo màu trắng hồng đã qua sử dụng và 870.000 đồng (Tám trăm bảy mươi ngàn đồng).

3.4) Tạm giữ số tiền 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng) đã thu giữ của các bị cáo để bảo đảm thi hành án.

(Tình trạng toàn bộ số vật chứng trên như Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 07/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội và Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội. Số tiền 11.870.000 đồng hiện đang trong tài khoản của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội theo Ủy nhiệm chi lập ngày 25/9/2020 của Phòng cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp Công an Thành phố Hà Nội).

4. Về án phí: Nguyễn Thị H và Đinh Văn TH, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 466/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy, tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội che giấu tội phạm

Số hiệu:466/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về