Bản án 46/2021/HS-ST ngày 10/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TG - TỈNH ĐB

 BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh ĐB xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Minh Th, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 30/6/1993, tại huyện TG, tỉnh ĐB.

Nơi cư trú: Bản C, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tòng Văn T, sinh năm 1964 và con bà Lò Thị T, sinh năm 1967. Vợ, chị Lò Thị Ch, sinh năm 1997; bị cáo có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị Tòa án xét xử; chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2021 đến ngày 10/02/2021, tạm giam từ ngày 10/02/2021 đến nay, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thu Huyền – trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh ĐB, có mặt.

* Bị hại:

- Chị Lò Thị L, sinh năm 1991, vắng mặt.

Địa chỉ: Bản C, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB.

* Người làm chứng: Cháu Lò Thị Lệ Q, sinh ngày 15/10/2012, vắng mặt. Người đại diện hợp pháp của cháu Lò Thị Lệ Q: Bà Quàng Thị H, vắng mặt.

Địa chỉ: Bản Sái Ngoài, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 07 tháng 02 năm 2021, Tòng Minh Th một mình đi bộ từ nhà ra đường Quốc lộ 6 hướng xã QC – thị trấn TG. Sau đó bị cáo đi vào ngõ nhà chị Lò Thị L ở bản C, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB. Bị cáo quan sát thấy cửa nhà chị L mở, có ba đứa trẻ khoảng 7 – 8 tuổi chơi ở gần nhà và không có ai ở nhà nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của gia đình chị L. Bị cáo đi vào nhà và vào khu vực giường ngủ phía trong bên phải, lật gối thấy 01 chiếc ví da màu hồng, bên trong ví có một số giấy tờ cá nhân của chị L và số tiền 3.452.000đ tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành. Bị cáo lấy trộm số tiền 3.452.000đ cho vào ví của bị cáo và đút vào túi quần đi ra phía đường Quốc lộ 6, đến ngã ba bản C mua thức ăn hết 450.000đ rồi đi về. Khi chị Lò Thị L về nhà phát hiện tài sản bị mất trộm nên hồi 14 giờ 30 phút ngày 07/02/2021 chị L đã trình báo Công an xã QC về việc kẻ gian vào nhà lấy trộm số tiền 3.452.000đ và nghi ngờ Tòng Minh Th là người đã trộm cắp tài sản của chị. Đến 18 giờ cùng ngày sau khi nhận thức hành vi trộm cắp tài sản của mình là sai trái, bị cáo đã ra trụ sở Công an xã QC để đầu thú và giao nộp lại số tiền 3.002.000đ còn lại.

Cáo trạng số: 34/CT-VKS-TG ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG truy tố bị cáo Tòng Minh Th về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Tòng Minh Th thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TG giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Tòng Minh Th và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Tòng Minh Th phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Tòng Minh Th từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, do bị hại không yêu cầu.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với Cáo trạng truy tố, luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan sai. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã đến Công an xã QC đầu thú khai nhận hành vi phạm tội và đã tự nguyện giao nộp lại số tiền 3.002.000đ để bồi thường thiệt hại cho bị hại. Đề nghị xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng mức án 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng, không có ý bổ sung vào lời bào chữa của người bào chữa, không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Tại phiên tòa vắng mặt bị hại chị Lò Thị L, Hội đồng xét xử xét thấy bị hại đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Quá trình điều tra chị Lò Thị L đã nhận lại được tài sản là 3.002.000đ (ba triệu không trăm linh hai nghìn đồng), số tài sản còn thiếu 450.000đ (bốn trăm năm mươi nghìn đồng), chị Lò Thị L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

- Về sự vắng mặt của người làm chứng cháu Lò Thị Lệ Q: Quá trình điều tra đã có lời khai. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên toà. Do đó có đủ căn cứ xác định hồi 13 giờ 30 phút, ngày 07 tháng 02 năm 2021 tại nhà chị Lò Thị L ở bản C, xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB lợi dụng sơ hở khi chị Lò Thị L không ở nhà, bị cáo đã vào nhà chị L lén lút chiếm đoạt số tiền 3.452.000đ (ba triệu bốn trăm năm mươi hai nghìn đồng) của chị Lò Thị L cất giữ trong ví da màu hồng dưới gối ngủ đầu giường nhằm mục đích tiêu xài cá nhân. Hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo Tòng Minh Th đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 173 quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:” Vậy việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh ĐB đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy bị cáo làm nông nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ vụ lợi, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc và trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tự nguyện đến Công an xã QC đầu thú khai nhận hành vi phạm tội và giao nộp lại số tài sản còn lại. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã QC, huyện TG, tỉnh ĐB được bố mẹ nuôi dưỡng cho đi học hết lớp 9 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, chưa bị Tòa án xét xử. Hội đồng xét xử thấy cần căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với bị cáo. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa tội phạm chung cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định.

- Kiểm sát viên và người bào chữa đề nghị cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Miễn án phí hình sự, không phạt bổ sung đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về hình phạt đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TG: Là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đúng với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Người bào chữa bị cáo đề nghị: Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự vì bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại số tiền 3.002.000đ (ba triệu không trăm linh hai nghìn đồng) cho bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 3.452.000đ (gồm 06 tờ tiền polime mệnh giá 500.000đ/tờ, 02 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ/tờ, 04 tờ tiền polime mệnh giá 50.000đ/tờ, 02 tờ tiền mệnh giá 1.000đ/tờ), sau khi chiếm đoạt bị cáo đã tiêu xài hết 450.000đ (bốn trăm năm mươi nghìn đồng), số tiền còn lại 3.002.000đ (gồm 06 tờ tiền polime mệnh giá 500.000đ/tờ và 02 tờ tiền mệnh giá 1.000đ/tờ) bị cáo đã giao nộp cho Công an xã QC khi bị cáo ra trình diện đầu thú. Như vậy số tiền 3.002.000đ là tài sản của bị hại mà bị cáo chiếm đoạt, việc bị cáo giao nộp lại số tiền 3.002.000đ là trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp chứ không phải là bị cáo bồi thường thiệt hại. Do vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của người bào chữa.

[8] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Các vấn đề khác:

- Số tiền 3.002.000đ (ba triệu không trăm linh hai nghìn đồng), đã làm rõ là tài sản hợp pháp của chị Lò Thị L. Cơ quan Ch sát điều tra Công an huyện TG đã quyết định trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lò Thị L là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện, kinh tế đặc biêt khó khăn nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

[12] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Ch sát điều tra Công an huyện TG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tòng Minh Th phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tòng Minh Th 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/02/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Tòng Minh Th được miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 10/5/2021). Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 46/2021/HS-ST ngày 10/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:46/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về